Một
cách khái quát, ngôn ngữ nói của người Quảng Nam có một số phương ngữ
trùng hợp với phương ngữ của nhiều tỉnh miền Trung như Quảng Trị, Thừa
Thiên Huế, Đà Nẵng. Đó là các từ ngữ như ở mô (ở đâu), đằng tê (đằng
kia), cái chi rứa (cái gì vậy), con khọn (con khỉ), xa ngái (xa lắm)…
Đất Quảng Nam phần lớn là rừng núi và vùng bán sơn địa, nhiều sông suối
đèo dốc nên địa hình khá hiểm trở. Tổ phụ của người Quảng Nam phần lớn
là người Thanh Hóa, Nghệ An. Trên 500 năm trước, theo bước chân của vua
Lê Thánh Tông, năm 1471, họ về phương Nam khai phá đất đai, lập làng
mới. Những người đến trước thường chiếm vùng đồng bằng ven biển bởi đất
đai ở đây dễ khai phá hơn. Những người đến sau phải đi dần lên vùng bán
sơn địa và miền núi. Lịch sử của con người nói chung và của con người
Quảng Nam nói riêng là phát triển từ Đông sang Tây. Đông là hướng biển,
Tây là hướng rừng núi Trường Sơn.
Trước năm 1975, phương tiện giao thông chưa có nhiều, phương tiện
truyền hình phát thanh lại càng hiếm. Người ta ở đâu thì ở đó, ít đi lại
với nhau, ít nghe nhau nói. Có người suốt đời không có dịp đi ra khỏi
làng mình. Họ nói thứ ngôn ngữ mà tổ phụ và bà con chung quanh thường
nói. Địa hình hiểm trở khiến ngữ thanh của từng địa phương nhỏ cấp
huyện, xã, thôn rất khác nhau. Chỉ trong một địa bàn Quảng Nam, những bà
con vùng nguồn nói vùng biển chưa chắc đã nghe được.
Tôi nhớ có một ông ở Sơn Lãnh (Quế Sơn) gánh nồi đất xuống tận chợ Bàn
Thạch (Duy Xuyên) bán. Buổi trưa nóng nực, chợ chưa đông, ông ngồi than
thở với cha tôi;
- Tôi ở Sơn Lãnh, đi qua Sơn Thạnh xuống đây bán nồi đất. Chưa bán chi được mà nó trợt cái oách, bể hai cái trách một cái vung.
Ông nói rất nhanh, đặc biệt khi phát âm các từ có vần A như Lãnh,
Thạnh, bán, đất, oách, trách thì ngữ thanh rất gần với ngữ thanh của bà
con Thanh Hóa. Sau này có dịp thâm nhập, tôi mới biến bên kia đèo Le của
Quế Sơn có những làng mà tổ phụ là người Thanh Hóa. Bởi quần cư sau một
ngọn đèo hiểm trở, điều kiện đi lại khó khăn nên bà con ít khi đi khỏi
làng mình. Sự giao lưu ngôn ngữ không có nên có những âm rặt của người
Thanh còn được giữ lại dù bà con đã sống giữa lòng Quảng Nam trên 500
năm.
Bà con vùng Tiên Phước phát âm những chữ có vần Ôi thường cho ra âm vị
Oôi rất dễ thương. Nếu bạn may mắn gặp được một cô gái Tiên Hà xinh đẹp
phát âm những âm vị này, e rằng bạn khó bỏ xứ Tiên Phước mà đi. “Trời
toối roồi, anh nên về đi thoôi”- cô bảo bạn như vậy. Nhưng xin bạn chớ
dại dột mà bỏ đi thiệt. Bởi “Nhứt gái Tiên Hà; nhì gà Tiên Lãnh”. Bạn
đến Tiên Phước mà không chiêm ngưỡng vẻ đẹp và nghe ngữ thanh duyên dáng
của cô gái Tiên Hà, không ăn món gà Tiên Lãnh xé phay với cháo là sai
lầm nghiêm trọng!
Tuy nhiên, ngữ thanh (âm vị) chỉ là cái vỏ bên ngoài. Chính hệ thống
phương ngữ mới quyết định nội hàm của ngôn ngữ Quảng Nam. Tôi sẽ bắt đầu
bàn qua phương ngữ theo thứ tự alphabet, giải thích ngữ nghĩa và đặt từ
ấy trong văn cảnh cụ thể để các vị bạn đọc tiện theo dõi. Có những từ
về âm vị, người Quảng Nam nói đúng theo âm vị các vùng miền khác nhưng
ngữ nghĩa thì rặt Quảng Nam. Chúng tôi cũng đưa các từ này vào trong
phương ngữ Quảng Nam.
Ảng: Một đồ dùng để chứa nước, thường được đúc bằng xi măng. Ảng có
miệng to, đáy nhỏ, dưới đáy có ba chân, được trổ một lỗ lù để thoát
nước. Rồi, không để cho vợ hỏi lôi thôi nữa, ông Trùm ra ảng múc một
miếng nước súc miệng. (Hai tuồng hát bội - Vũ Đức Sao Biển).
Ba xăng khao: Tào lao, ăn nói vớ vẩn. Thằng X là thằng ba xăng khao.
Bá vơ: Tào lao. Không đáng tin. Thằng đó nói toàn chuyện bá vơ.
Bàn hình: Máy chụp ảnh. Sở dĩ máy ảnh được phong lên thành “bàn” bởi
ngày xưa, chiếc máy Leika do Đức sản xuất rất to lớn, cồng kềnh. Người
chụp đứng sau nó, phủ tấm vải đen trùm đầu rồi mới ra hiệu sẽ chụp ảnh.
Ngày nay, máy ảnh kỹ thuật số đã gọn nhẹ nhưng nó vẫn được gọi là… bàn
hình. Gọi vậy cho oai! Anh đem cái bàn hình chụp cho em một tấm ảnh đi.
Bàn thọa: Hộc bàn. Cha để giấy tờ của con trong cái bàn thọa nớ.
Bành chát, bành sư, bành sư chát: Cái gì to lớn quá khổ. Củ khoai từ
bành sư, nặng tới mười ký. Cái gì của ông Phó Bảy cũng quá khổ, cũng
rùng rợn, cũng to bành sư chát. (Con cá vược - Vũ Đức Sao Biển).
Bảy đáp: Danh từ chung chỉ những người chuyên mổ heo. Không thương ai
bằng thương anh bảy đáp, Ảnh làm heo rồi mình có tim, có cật mình ăn.
(Hát ru con Quảng Nam).Bảy đáp táp… heo. (Thành ngữ Quảng Nam).
Bị: Cái túi áo (dính liền với áo). Chị lựa những trái sim chín nhất, to
nhất bỏ vào bị cho em. (Bóng hoa sim - Vũ Đức Sao Biển).
Bủng: Trạng thái của người bị phù thũng. Tiết đông thiên, ông Út ổng bủng.
Chuổi: Cây chổi quét nhà. Mi cầm cái chuổi mi suốt cái nhà coi.
Chừ: Bây giờ. Chớ chừ ông đi mô? (Hai tuồng hát bội - Vũ Đức Sao Biển).
Cúp: Hớt tóc (phiên âm động từ couper trong tiếng Pháp). Anh Sáu là thợ cúp.
Dá: Nhứ để dọa nhưng chưa đánh (hư chiêu). Một cái dá bằng ba cái đánh. (Thành ngữ Quảng Nam).
Dị: Xấu hổ, mắc cỡ. Ăn mặc hở hang rứa mà không biết dị. Hôm qua, em đi
vô toa-lét, lúc ra lại quên kéo phẹc-mơ-tuya. Trời ơi, dị chi mà hắn
dị!
Diễn: Trạng thái của chiếc nón lá đẹp, nhìn thích mắt. Chiếc nón này diễn lắm.
Dớn: Tên một loài rau họ tảo, mọc ven bờ sông, bờ suối các huyện miền
cao. Mùa này cành rau dớn/ Ngọt ngào tươi hơn hớn/ Chờ bàn tay em hái
dâng cho người. (Xuân ca vô tận - Vũ Đức Sao Biển).
Dũm: Loại nắp nhỏ làm bằng đất sét nung để đậy hũ mắm (tĩn mắm) rồi
khằn lại bằng xi măng hay mật rỉ đường. Mặt hắn thun lại như cái nắp
dũm.
Đà: Đã. Trang hồng kim hải ra hoa/ Trổ bông mùa phượng cũ đà hồ phai. (Mùa phượng cũ - Bùi Giáng).
Đầu dầu: Đầu không đội nón. Trời nắng chang chang mà mi đi đầu dầu rứa Tèo!
Đủm: Khúc. Ngắn ngủn. Ngắn. Mía được cắt ra thành từng đủm. Người chi mà đầu đuôi có một đủm.
Đường đượng: Trạng thái của cái lưng to, mập mạp. Ăn uống cho lắm rồi cái lưng đường đượng.
Giú: Giấu. Che giấu. Đứa mô giú quyển sách của em X thì đưa ra. Cái chuyện động trời như rứa tại răng mi giú cho hắn?
Gù: gò. Tán, tán tỉnh. Nói dịu dàng để lung lạc người khác. Mi lại đây,
tau bày cho cách gù gái. Hắn gù răng không biết mà mượn được bà Hai đến
6 triệu đồng.
Hầm hinh: Trạng thái của đồ vật chông chênh, không chắc chắn, người
đứng lên có thể té ngã. Cái bàn đang hầm hinh, đừng có đứng lên đó.
Hỷ: Nhé, nhá. Vậy (thường đứng cuối câu). Anh về em hỷ. Đang ở mô rứa hỷ? Mạnh giỏi không hỷ?
Hoang: Nghịch ngợm. Nói bậy bạ chuyện tình dục. Thích tình dục. Mi nói
mi hoang hả? Mi hoang răng bằng tau? (Bốn Chỉnh - Vũ Đức Sao Biển).
Cái thằng đó hắn nói hoang lắm. Mới 30 tuổi, ông đã có bốn đứa con. Đúng là hoang sớm.
Họ: Người ta. Đại danh từ nhân xưng ngôi thứ nhất. Đi đâu mà bỏ họ ở nhà một mình?
Hử: Hả. Thường đứng cuối câu hỏi, hàm ý giận dữ. Mi có nhớ mi hứa với tau cái gì không, hử?
Khí: Con người, đồ vật chẳng ra gì. Thằng khí nớ không làm được việc chi hết. Cái xe khí này mà chạy răng được?
Khía cạnh: Nói châm chọc. Thôi, ông đừng khía cạnh tôi nữa.
Khính: Chẳng ra gì (hàm ý khinh bỉ). Cái đồ làm ăn như khính!
Khò: Cái gì được kết dính lại bằng lửa. Đào vàng ba năm, anh X chỉ kiếm được mấy chỉ vàng khò.
Khu đĩ: Chỗ vách nhà hình tam giác đỡ lấy hai mái nhà. Nước lụt lên rất
nhanh khiến nhiều bà con phải trổ khu đĩ thoát ra, leo lên ngồi trên
mái nhà.
Khù: Khờ, không biết gì. Ba mươi tuổi mà hắn vẫn khù như con nít.
Kinh: Quá. Chu, cái ông ni dễ thương kinh! (Quảng Nam hay cãi - Vũ Đức Sao Biển).
Lả: Không đứng đắn, không nghiêm túc. Làm con gái thì đừng có lả.
Lộn thin lộn mồng: Đầu óc hồ đồ, lộn lạo các thứ không nhớ ra. Mi đi chơi, tau đánh cho mi lộn thin lộng mồng!
Lù đu: Không phát triển, không lớn, không cao. Vùng đất cát lại thiếu
nước nên trồng cây chi cũng lù đu. Mười tám tuổi rồi mà hắn lù đu như
rứa đó.
Mắc tịt: Mắc cỡ. Xấu hổ. Mặc xà lỏn mà đi ngoài đàng, không biết mắt tịt.
Mằn: Sờ sẫm. Mân mê. Tối ba mươi Tết, Tết ba mươi/ Chồng mằn ngực vợ,
vợ cười tươi/ Ông bà phán hỏi: Làm chi rứa?/ - Vui! (Thơ yết hậu dân
gian Quảng Nam).
Mít: Dốt. Chịu thua, không trả lời được. Anh hỏi tới chữ nghĩa thì tui mít. Cái thằng nớ đi học nhưng vẫn mít như không đi học.
Mỵ: Lạ lùng, không giống ai. Chớ mi làm cái chi mà mỵ rứa mi?
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
Theo baoquangnam.com.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét