Sông
Thu Bồn, từ nguồn đổ về đến làng Giao Thủy, rẽ ra làm hai nhánh, một
dòng về Kỳ Lam, một dòng về Kiểm Lâm, La Tháp (quê hương Bùi Giáng), tạo
ra một vùng gò nổi hình cái thoi, bắt đầu từ làng La Kham đến chót dải
đất là làng Hà Mật. Từ đó hai dòng sông nhập chung lại, chảy về cửa Đợi,
qua thành phố Hội An, tỉnh lỵ Quảng Nam. Vùng đất hình thoi này xưa kia
dân chúng gọi là Gò Nổi, thuộc quận Điện Bàn. Đến năm 1953, tòa hành
chánh tỉnh Quảng Nam lập ra khu hành chánh, ông Phan Vỹ là khu trưởng,
đặt tên vùng gò nổi này là khu Phù Kỳ.
Dân số Phù Kỳ khoảng chừng hai chục ngàn, sản sinh ra nhiều nhà cách mạng, văn hóa và khoa bảng.
Từ làng La Kham, một con đường đất rộng xuyên qua các làng Bảo An, Xuân
Đài, Đông Bàn, Bàn Lãnh, Cẩm Lậu, Phú Bông, Thi Lai, An Trường và Hà
Mật, dân chúng trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa, dệt vải. Một số ít trồng
mía làm đường ở Bảo An. Thuở ấy, Phù Kỳ còn sản xuất một loại tơ may âu
phục nổi tiếng trong nước là hàng tít-so bằng tơ tằm sợi lớn, càng cũ
càng sáng nước ra, thanh niên Tây học ai cũng yêu thích. Khoảng thập
niên 30, dân Nam Kỳ lục tỉnh ăn mặc đơn giản, đa số dùng lãnh đen hay
lãnh Mỹ a, nhuộm mặc nưa. Loại lãnh này dệt bằng tơ tằm ở hai quận Duy
Xuyên và Điện Bàn mà khu Phù Kỳ là đông dân làm nghề dệt hơn cả. Tuy là
nơi sản xuất, nhưng loại hàng này dệt ra không dùng ngay được mà phải
đưa vào Hốc Môn, Tân Châu nhuộm, xong mới tung ra thị trường tiêu thụ là
lục tỉnh Nam Kỳ, sau đó là Nam Vang, Cao Miên. Nhờ vào nguồn tiêu thụ
rộng lớn đó, dân Phù Kỳ làm ăn phát đạt, giàu có và ngành dệt phồn thịnh
nhất Quảng Nam. Năm 1940, đã có nhiều nhà cất theo kiểu Tây, ở Thi Lai,
ông Võ Dẫn sắm xe Traction 11.
Nguyên do khiến tiểu công nghệ dệt phát triển là một sự việc khá lý
thú. Trước kia dân chúng dệt lụa bằng tay, chân đạp, tay phóng thoi; ba
hay bốn ngày mới được một cây lụa hai mươi thước. Đến khoảng năm 1927,
một người Pháp muốn kinh doanh ngành dệt, mua một máy dệt bằng sắt, chở
đến Hội An, nhưng vì nhiều lý do phức tạp đã không dùng được. Tình cờ
ông Võ Dẫn (tức Cửu Diễn) xuống Hội An chơi, thấy cái khung dệt này. Tuy
xuất thân chỉ là thợ dệt, học hành chẳng bao nhiêu, nhưng ông rất thông
minh, chỉ nhìn qua khung dệt một lần, về nhà ông lấy gỗ mít đóng một
khung cửi hoạt động tương tự như cái khung cửi sắt đó. Ông phối hợp cả
gốc tre (làm tay đánh cái thoi), quai guốc da bò, niềng thép. Thay vì
máy sắt chạy bằng điện, ông chế ra đạp bằng chân. Dệt tay mất ba, bốn
ngày mới được một cây lụa, dệt đạp bằng chân chỉ tốn có một ngày. Làm
thành công, sợ người bắt chước, ông lấy thùng thiếc đựng dầu hôi, cắt
từng tấm đóng kín khung dệt, chỉ chừa những bộ phận không thể che dậy
được. Thế mà có ông thợ mộc Nguyễn Thống, chuyên đóng khung dệt bán cho
bà con, đến xem, và chỉ kê tai nghe tiếng máy chạy đều, vài tháng sau
ông đã sản xuất ra hàng loạt khung dệt để bán. Từ đó tiểu công nghệ dệt
phát triển nhanh chóng, đến nỗi tơ tằm địa phương sản xuất không đủ cung
cấp cho khung dệt, phải ra Bắc vào Nam mua thêm tơ sợi.
Thời gian các ông Võ Dẫn và Nguyễn Thống sáng chế ra cái trục quì để
dệt hàng cẩm tự (ô vuông âm dương) và hàng có bông nổi, Phù Kỳ rất trù
phú, tuy vùng quê nhưng nhà ngói nhiều hơn nhà tranh; Đà Nẵng, Hội An
tuy thành thị cũng không bằng được!
Đến năm 1945, chiến tranh bùng nổ, nhà cháy, dân chúng phải tản cư,
khung cửi tan tành. Một số chạy vào Sài Gòn, ngụ cư tại vùng Ngã Tư Bảy
Hiền, dựng lại nghề dệt. Lúc bay giờ Ngã Tư Bảy Hiền còn là một vũng
sình, lần hồi dân Phù Kỳ tập họp lại khá đông. Có thể nói, Ngã Tư Bảy
Hiền là khu Phù Kỳ thứ hai vậy.
Trên cuộc đất gò nổi Phù Kỳ này, nhiều anh tài lỗi lạc đã được sản
sinh. Làng Bảo An, có cụ Phan Khôi, một nhà báo nổi danh cương trực và
cũng là tác giả bài thơ mới nổi tiếng: Tình Già. Năm 1946 ở Bảo An, khi
con trai cụ là Phan Thao ra ứng cử dân biểu khóa I của Việt Minh, cụ ...
ra Vĩnh Điện để chửi Phan Thao và Lê Thị Xuyến (vợ Phan Thanh, em dâu
của cụ). Cụ Hồ bèn sai Phan Bôi (Hoàng Hữu Nam, em thúc bá với cụ) vào
Quảng Nam mời cụ Phan ra Bắc và giữ luôn không cho về. Phan Thanh cũng ở
Bảo An, là nghị viên Hà Nội, nổi tiếng hùng biện, bênh vực dân quyền,
chống thực dân nên bị đầu độc chết rất trẻ. Đám tang ông ta rất lớn,
thanh niên đương thời ai cũng tiếc thương.
Xuống làng Xuân Đài, chúng ta có anh hùng Hoàng Diệu, trấn thủ Thăng
Long, và đã tuẫn tiết khi mất thành. Lần theo con đường đất đến làng
Đông Bàn, là nơi sinh trưởng của cụ Thượng Phạm Phú Thứ, nội tổ của phi
công Phạm Phú Quốc. Đến làng Phú Bông có gia đình bà Tú Kinh, ông Tú mất
sớm, để lại năm người con trai. Con cả là ông Trương Xuân Mai làm
thượng thư, hai ông kế: Trương Xuân Ngô và Trương Xuân Thọ, đỗ bác sĩ y
khoa tại Pháp, ông Trương Xuân Nam là dược sĩ. Làng Hà Mật cũng có hai
ông bác sĩ nữa. Trong một vùng gò nổi, so với tỉ lệ dân số không bao
nhiêu mà có nhiều người đỗ đạt thành danh như vậy, Phù Kỳ quả là vùng
địa linh nhân kiệt.
Khi còn đi học ở trường Bảo An, tôi được nghe kể về nhà cách mạng bị bỏ
quên là cụ Phan Thành Tài. Hưởng ứng phong trào Cần Vương, cụ cùng các
cụ Nguyễn Thành, Nguyễn Huy Hiệu, Trần Quý Cáp lên Hà Tân, Hà Dục, lập
chiến khu Tam Tỉnh (Quảng Nam, Thừa Thiên, Quảng Trị). Tòa sứ Quảng Nam
xuất trát cho lý trưởng Bảo An biết, nếu trong vòng một tháng, cụ Phan
không về đầu thú, chúng sẽ đốt rụi làng Bảo An. Có lẽ vì thương dân
làng, cụ đã về hàng. Ngày từ biệt dân làng ra tỉnh, tại bến Đường (thuộc
sông Thu Bồn), cụ đã ứng khẩu đọc bài thơ:
Nay nói với anh em lớn nhỏ
Có chịu khó mới nên khôn
Phải lo cho hết việc nước non
Đừng để tiếng dã man mà xấu hổ
Tiến bộ hề tiến bộ
Mau mau theo trái đất lăn tròn
Dặn anh, dặn cháu, dặn con
Còn trời còn nước còn non
Nước Nam là nước Nam ta
Lúc ấy cụ đã có hai con trai. Anh cả là ông Phan Bá Lân, sau này làm
hiệu trưởng tiểu học nên thiên hạ gọi là ông Đốc Lân. Ông này mất sớm,
để lại tại làng Bảo An một ngôi nhà đồ sộ, nhưng vắng hoe. Kế là ông
Phan Thuyết, sau đi Pháp du học đỗ cử nhân văn chương, về Sài Gòn mở
trường trung học tư thục Đạt Đức.
Khi cụ Phan Thành Tài từ giã gia đình xuống tỉnh lãnh án tử, cụ bà đang
mang thai người con út (sau đặt tên là Phan Út). Cụ cám cảnh thê nhi
cũng ứng khẩu đọc bài thơ:
Con còn bụng mẹ, cha đã chết
Con bước ra đời nước đã suy
Thù nhà nhục nước con nên biết
Hòa máu con ra tấm nước non.
Giải về tỉnh, cụ lãnh án yêu trảm (chém ngang lưng). Các nhà cách mạng
đương thời vận động hai ông Phan Thuyết và Phan Út qua Pháp du học, cả
hai đều đỗ cử nhân văn chương. Ông Phan Út về nước sớm, mở trường tư
thục Tân Thanh ở Ngã Sáu Sài Gòn, không hề hoạt động chính trị. Ông Phan
Thiết về nước sau em, cũng mở trường tư thục Đạt Đức như đã nói ở trên.
...
Bên Duy Xuyên có làng Cù Bàn, La Tháp, đối diện bên này là làng La
Kham, hai bên bờ sông là bãi dâu trải dài xanh ngắt. Giáp ranh La Kham
với Bảo An là một khu nghĩa địa hình mũi bút. Từ ngày Bảo An lập chợ,
dân đi chợ đi tắt làm thành đường mòn cắt cái mũi bút đó đi, khiến dân
Bảo An, tuy học hành đỗ đạt nhiều mà làm quan không bền, đúng như ông
Phan Khôi đã viết trong truyện Ông Năm Chuột. Trước kia làng Bảo An
không có chợ, phải đi chợ Bến Đền, bị ăn xin phá quá, tức lòng bèn lập
chợ. Thiếu dết, dân làng kéo hết trai tráng ra lấp cái bàu nước gần
trường học để lập chợ, hai làng tranh chấp nhau vài năm mới xong.
Viết về khu Phù Kỳ mà quên nói về làng Bến Đền là một thiếu sót lớn.
Nguyên lai từ ngày ba ông tiên hiền Phan, Nguyễn, Ngô từ ngoài Bắc vào
Nam lập làng Bảo An, có một người ăn mày đến xin trú tạm. Sát bờ sông có
một khoảnh đất bùn lầy không trồng trọt được, ba ông tiên hiền bằng
lòng cho ông lão ở đó và trồng rau dền. Lần hồi đất lở sông bồi, miếng
đất đó lớn dần thành làng. Ông lão ăn mày tụ tập ăn mày tứ xứ về đó cho
cất nhà xây chợ và lập ra làng Bến Dền, sau này đổi thành Bến Đền. Dân
làng này làm ăn phát đạt, cũng dệt cửi, ươm tơ. Tuy nhiên để nhớ tổ
nghiệp, mỗi năm đến ngày cúng kỵ dân làng đều bận áo rách đi xin. Tế tổ
đình mặc dầu làm heo làm bò, nhưng trên bàn tổ, các món vật thực đều do
dân làng đi xin về cúng.
Dọc theo con đường chánh của khu Phù Kỳ là các nhà thờ của tộc Phan,
tộc Nguyễn, tộc Ngô... Cứ cách khoảng vài trăm thước là một ngôi đồ sộ.
Từ Bảo An đến Xuân Đài, quê hương của cụ Hoàng Diệu, leo lên một dốc cao
là con đường xe lửa, từ cầu Chiêm Sơn chạy qua ga Kỳ Lam. Trên khoảng
đường sắt này có một ga tạm mà hành khách đi Sài Gòn đông hơn các ga
chánh, chỉ thua ga Trà Kiêu mà thôi. Qua con dốc là đến Đông Bàn (quê
hương Phạm Phú Quốc), nơi có hai cây da cổ thụ, cành lá sum sê che mát
trọn con đường, khách bộ hành thường nghỉ chân ở đây.
Rời Đông Bàn, Bàn Lãnh, Cẩm Lậu, chúng ta sẽ đến chợ Thu Bông. Nơi đây
có một đồn binh Pháp lớn, kiểm soát trọn khu Phù Kỳ. Về chiến thuật, cái
đồn này nằm chơ vơ giữa đồng. Về tiếp tế, cả hai bên đồn đều bị con
sông Thu Bồn ngăn cách. Từ Vĩnh Điện vào Phú Bông phải qua phà Hoa Trà;
từ Phú Bông qua đồn Trà Kiệu phải qua sông và một khoảng đường dài kém
an ninh. Thế mà đồn Phú Bông không mấy khi bị Việt Minh tập kích. Lý do
giản dị: chỉ vì dân làng làm ăn giàu có, không chấp chứa, nuôi dưỡng du
kích.
Phú Bông có một món ăn độc đáo mà bất cứ ai là dân Phù Kỳ đều ưa thích,
đó là món ram bà Thiều. Ram là món ăn chơi đặc biệt của xứ Quảng, tương
tự như món chả giò, chỉ khác là nhân làm bằng một con tôm, một lát thị
ba chỉ, một củ hành lá, cuốn tròn đem rán mỡ. Khi ăn, trải miếng bánh
tráng mỏng, thêm một miếng bánh tráng nướng, và rau thơm, đặt cuốn ram
lên, hai tay nhẹ nhàng cuốn tròn lại, túm đầu túm đuôi cho cuốn bánh
trong lòng
bàn tay và bóp mạnh. Miếng bánh tráng nướng rệu kêu giòn, nhiên hậu mới
chấm nước mắt ớt đưa vào miệng. Cái bánh tráng loại này mỏng vừa phải,
nhúng nước vẫn bền nên dù bóp mạnh mà không rách. Cái món ăn cầu kỳ quê
mùa này, nhắc để mấy lão già xa xứ còn sót lại tưởng niệm mà thôi, con
cháu của mình, dù là gốc Phù Kỳ, mấy đứa còn nhớ!? ...
(Nguồn Internet)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét