Dẫn nhập.
Vào đầu thập niên 1990, Tiến Sĩ Lê Văn, lúc đó là Cố Vấn cho Bộ Giáo
Dục California, có tổ chức một hội thảo về "Những chuyện vui trên đường
hội nhập vào xã hội Hoa Kỳ (HK)." Diễn giả gồm nhiều giáo chức Việt Nam
cư ngụ rải rác nhiều nơi ở HK và Canada. Tôi được tham dự với tư cách
một thuyết trình viên. Sau một ngày hội thảo , chia xẻ những mẫu chuyện
vui với các hội thảo viên, chúng tôi có dịp dùng cơm tối chung do ban tổ
chức khoản đải. Tôi ngồi cạnh Giáo Sư Nguyễn Đình Hòa. Thật là một buổi
hội ngộ hiếm có của một số đồng nghiệp cũ. Câu chuyện trong bàn ăn là
những chuyện hàn huyên xen lẫn với nhiều chuyện vui trên đường định cư.
Tôi kể ra một số những tiếng lái, câu lái và những lối nói lái gọi là
góp phần trong một buổi tiệc hiếm có. Lẽ dĩ nhiên là có một vài tiếng
lái và một vài câu lái không được thanh tao lắm. Nhưng các đồng nghiệp
trong bàn có vẽ vui vẽ vì câu chuyện nói lái.
Điều đặc biệt là GS Hòa có vẽ cũng thích những câu nói lái. Ông lấy
bút, giấy ra, bảo tôi "bớt ga xăng" để ông ghi chép. Tôi nói với ông là
còn nhiều câu khác mà tôi có nghe đến, có vẽ kém lịch sự hơn vì trắng
trợn hơn. Ông nói không sao, chúng ta đang học hỏi, chia xẻ những chuyện
vui, ghi lại những gì mình biết là điều tốt trong việc lượm lặc những
mẫu chuyện do dân chúng truyền khẩu. Tôi nổi hứng hứa liều: GS khỏi ghi
chép, tôi sẽ viết thành một bài gởi đến GS để đăng báo nào cũng được.
Ông nói gởi đến cho Ông hay gởi cho báo nào cũng chẳng sao, miễn là nhớ
ghi lại và phổ biến để góp phần cho vui. Rồi thời gian trôi qua, cuộc
sống quá bận rộn, và rồi tháng nầy chầy tháng khác, năm nọ kéo năm kia,
và nghề nghiệp lại không dính dáng vì tới khung cảnh nghiên cứu, tôi
đành tự nhủ là khi nào rảnh rổi sẽ viết. Rồi tôi lại nghe nói GS về
California. Cùng với một số giáo sư khác như GS Lê Văn, GS Nguyễn Khắc
Hoạch v.v., ông mở Viện Việt Học. Và sau đó tôi đọc tin GS Hòa qua đời.
Tôi cầm tờ báo có cáo phó, ngẫn ngơ. Món nợ tinh thần nầy làm sao trả
được. Cách đây vài năm, tôi về hưu, rời vùng South Pasadena, và định cư ở
Orange County. Giờ đây tôi có một số giờ nhàn rổi nên tôi cố gắng viết
lại bài "nói lái" nầy và giao nó cho GS Lê Văn, cố vấn của Viện Việt
Học. Người anh khả kính nầy đã là "xếp" của tôi, và nhà tôi, trong nhiều
năm ở Đại Học Sư Phạm Saigon. Hơn nữa Tiến Sĩ Nguyễn thị Bảo Xuyến (bà
Lê Văn) lại là Phó Viện Trưởng Viện Việt Học. Như vậy tôi đã có dịp làm
tròn lời hứa với GS Hòa một cách gián tiếp, và cũng để góp chút xíu
những điều lượm lặt nói lên sự phong phú và tính cách đa dạng của tiếng
Việt.
Không biết văn nói lái hoặc việc dùng tiếng lái trong văn nói và văn
viết có từ bao giờ. Riêng tôi, tôi đã nghe, bắt chước và dùng nói lái từ
lúc còn học tiểu học vào thập niên 1940. Sau nầy đọc sách mới biết rằng
lối nói lái đã được dùng từ lâu hơn tôi tưởng. Người ta nói lái để chơi
chữ, để bông đùa giữa bạn bè với nhau, để châm biếm vô hại một sự việc
gì đó cho vui, hoặc châm biếm một người khác mà không dám nói trực tiếp.
Ngay cả trong việc đặc tên hiệu hoạêc thương hiệu cũng có dùng tiếng
lái như trường hợp của nhà thơ Thế Lử với tên thật là Nguyễn Thứ Lể. Thế
Lử là tiếng lái của Thứ Lể.
Tôi xin thưa trước những chuyện cười thì phải có người nói và người
nghe. Người nói phải có tài nói chuyện vui. Phải lựa chuyện cho đúng với
thành phần thính hay khán giả thì câu chuyện mới được thưởng thức. Còn
nến viết chuyện cười để cho thiên hạ đọc thì chưa chắc tất cả người đọc
đều cười và đôi khi còn nghe chê là chuyện cười nầy hay chuyện cười kia
"dở ẹt". Nhưng cũng câu chuyện dở ẹt đó màụ do một người có tài kể, và
kể đúng lúc, đúng trường hợp thì lại là chuyện hay. Cũng y vậy, đã gọi
là "nói lái" thì phải nói đúng chuyện, đúng lúc, đúng nơi, đúng với
thành phần thính giả thì may ra mới được thưởng thức. Do đó, vì đây là
bài sưu khảo nên tôi phải viết tất cả những chuyện gì mà tôi có thể ghi
lại theo trí nhớ, hoặc ghi ra từ những tài liệu khác. Đọc bài nói lái
chắc chắn là dể nhàm chán hơn là nghe nói lái. Xin quý vị chịu khó đọc
hết để thấy nhiều dạng khác nhau của việc nói lái.
Nói lái trong một số sách vở.
Từ đoạn nầy trở về sau, "chữ" (còn gọi là "từ" hay hay nhóm chữ (cụm
từ) , hoặc câu thơ nào có thể viết tiếng lái ra, tôi sẽ viết. Nếu cảm
thấy bất tiện vì tiếng lái có vẽ quá "tả chân" hay gọi là không được
thanh tao, tôi xin miễn viết ra để gọi là tôn trọng cả những người cho
rằng không nên viết những từ có vẽ quá ..trớn. Tôi chỉ tô đậm, hoặc gạch
dưới những từ có thể hiểu theo nghĩa lái, hoặc không gạch dưới gì cả.
Nói lái tiếng Pháp: Ông Lãng nhân, trong quyển Chơi Chữ (5) có nhắc
chuyện nói lái bằng tiếng Pháp. Chuyện rằng có một cặp vợ Việt, chồng
Pháp vào hàng tranh sơn mài. Vì chủ nhân nói thách quá nên vợ rỉ tai
chồng: "très chaud, très chaud (nghĩa đen: nóng quá, nóng quá). Chồng
lật đật chọn tranh, trả tiền nhanh để ra ngoài cho bà vợ được mát hơn.
Vợ trách chồng khi ra khỏi cửa " Đã bảo đắt quá mà còn mua". Chồng nói
là có thấy vợ kêu đắt đâu. Vợ bảo có nói rồi "très chaud" là "trop cher"
(mắc quá). Bà ấy đã nói lái theo kiểu VN, chắc chắn là "bố" của anh
chồng cũng không hiểu được.
Nói lái cho vui về nguồn gốc của một người: Ông Nguyễn Ngọc Huy, trong
quyển Tên Họ Người Việt Nam (8 ), có thuật câu chuyện đại khái như sau.
Ngày xưa có nhiều người VN từ miền Trung tiếp tục vào Nam lập nghiệp.
Dân Nam, vì không biết rõ địa lý miền Trung, gọi chung những người mới
vào sau là "người Huế". Có nhiều người Huế làm nghề thầy lang lưu động.
Một thầy lang nọ tuy còn trẻ, nhưng mát tay chửa lành cho một phú hộ.
Ông phú hộ cảm ơn thầy lang bằng cách gã con cho thầy. Ông lại giúp vốn
cho mở tiệm thuốc bắc. Chú rể nhờ cha vợ đặt tên cho hiệu thuốc của
mình. Ông cha vợ đặt tên tiệm là "Thế Hoằng Dược Phòng". Ông giải thích
cho rể đại ý là nó làm việc cứu người nên đời mở rộng ra (thế = đời;
hoằng = rộng). Chú rể rất hài lòng. Khi có người khác hỏi ý nghĩa của
hai chữ đó, ông cười và nói : Rể tôi là người Huế, tôi đặt hiệu tiệm Thế
Hoằng là để nhắc cho nó nhớ gốc gác nó là Thằng Huế. (Trong trường hợp
nầy nguyên âm "o" trong chữ "hoằng" đã được thay thế bằng nguyên âm "u"
trong chữ "Huế". Đây chỉ là đọc cho thuận tai mà thôi, chớ lúc nói lái
không ai nghĩ đến việc thay đỗi nguyên âm hay phụ âm, hoặc hoặc thay đổi
"dấu" gì cả.
Nói lái vì tục cử tên: Cũng trong quyễn sách trên, GS Huy còn nhắc đến
một câu chuyện "nói lái" khác do tục cử tên mà có. Ngày xưa, thời chữ
nho còn thịnh, dân Việt có tục cử tên hay còn gọi là kỵ úy. Thí sinh của
các kỳ thi trước năm 1920 là những nạn nhân đầu tiên. Nếu bài làm không
tránh những tên cấm kỵ thì chẳng những bị đánh rớt mà còn có thể bị các
biện pháp chế tài khác. Nạn nhơn thứ hai là những người cầm bút. Và nạn
nhân thứ ba là các gánh hát. Tục cử tên ảnh hưởng sâu rộng trong dân
chúng. Theo GS Huy thì dân chúng đã phản ứng lại bằng cách dùng tiếng
lái.
Số là vào những thập niên 1940-50 có những đoàn hát bội lưu động đi hát
ở các miền thuộc "Lục Tỉnh" . Trước khi đến một vùng nào thì bầu gánh
phải lấy danh sách của các chức sắc nơi đó để khi hát, những diễn viên
phải tránh tên trong danh sách đó hay đọc trại đi . Thí dụ tên của ông
cai tổng là Nguyên thi khi hát, tất cả những chữ "nguyên" đều được đổi
ra "ngươn" vì tên Nguyên phải cử để tỏ sự kính trọng.
Có một gánh hát đến một làng nọ để hát trong dịp lể "kỳ yên." Các vị
hương chức trong xã họp bàn về việc cử tên. Hội đồng xã đồng ý là để cho
tuồng hát được hay, miễn cho đoàn hát khỏi cử tên các chức sắc, trừ tên
hai anh em của hai vị hào mục tên Hòa và tên Hóa. Hai ông nầy rất hách
dịch, nhứt định là đoàn hát phải cử tên của hai ông. Nhũng người trong
gánh đồng ý. Nhưng để chơi xỏ hai ông này, họ thêm một màn diễu. Trong
màn nầy có hai người đối đáp, một người đóng vai lính. Người kia hỏi là
trong quân ngũ, lính được ăn món gì thường xuyên. Anh lính đáp: "Hoặc ăn
cà, hoặc ăn cá." "Những người lanh trí hiểu đó là câu nói lái để móc
họng ông Hòa và ông Hóa đều ôm bụng cười trong khi hai ông này giận muốn
hộc máu mà không làm gì được gánh hát." (8 ) (Xin thưa thêm cho rõ
nghĩa: hoặc ăn cà = Hòa ăn c.t; hoặc ăn cá = Hóa ăn c.t )
Tiếng lái có nghĩa riêng: Trong một video mà ông Nam Lộc và cô Nguyễn
cao Kỳ Duyên là MCs (rất tiếc không nhớ video tên gì), ông Nam Lộc phỏng
vấn ca sĩ Chế Linh. Ông có hỏi ca sĩ rằng hồi ở Saigòn, những người
ngưởng mộ có gọi đùa ca sĩ Chế Linh là ca sĩ "Lính Chê", ca sĩ Chế Linh
có giận không? Ca sĩ Chế Linh trả lời là ông được miễn dịch (lính chê)
vì là thuộc sắc tộc thiểu số Chàm, và không phiền hà gì với tên riêng
đó. Tôi chắc là ông Nam Lộc cũng thừa biết là từ "lính chê" là tiếng lái
của Chế Linh. Tiếng lái nầy lại trùng hợp với tình trạng quân dịch của
ca sĩ Chế Linh.
Nói lái đơn giản về người, thú vật và những chuyện hằng ngày: Trong
video Vân Sơn số 3, trong hài kịch Ông Ninh Ông Nang (12) (không thấy để
tên tác giả) có một phần đối đáp sau đây giữa cách hài kịch viên toàn
là câu lái, rất đơn giản và rất dể hiểu về thú vật (cá, chim, chó, mèo),
về người (bà già, ông già, trẻ em, cô dâu, chú rể ) và các điều khác.
"Con cá đối nằm trên cối đá;
Mèo đuôi cụt nằm mụt đuôi kèo
Chim mỏ kiến nằm trên miếng cỏ;
Chim vàng long đá tại vòng lang
Chim sáo sọc chê anh sóc sạo;
Con chó què chân bị cái quần che
Cô bé mập ú là nhờ mụ ấp;
Thằng nhỏ ốm tong vác cái ống tôm
Chiều chiều cụ Mão lên rừng cạo mũ;
Sáng sớm bà Hạt đi bán bạt hà
Cô nàng dâu hứa đi mua dưa hấu;
Chàng rể bảnh trai ngồi tại bải tranh
Người mặc áo xanh chính là anh sáu;
Miếng thịt băm nát trong bụng bác năm
Anh chàng sức môi ngồi ăn xôi mức ;
Cô gái mồm to lặn lội mò tôm
Nhờ cái búa đỏ chẻ thành bó đủa;
Cái nồi cơm thiêu lại dám kêu thơm
Tấm hình lộng kiến ai đem liệng cống;
Cô gái muốn chồng ngó cái mống chuồng."
Đến đây đã hết những câu lái trong Video Vân Sơn, nhưng câu chót làm
tôi liên tưởng đến câu lái khác cùng ý nghĩa:"Mống chuồng mọc giữa đồng
chòi . Cái móng mọc ở giữ đồng bình thường như chuyện "muốn chồng" thì
"đòi chồng" phải không quý vị?
Các nhà văn (hiện đã già, hoặc đã ra đi rồi) nói lái:
Trong quyển "Hơn Nửa Đời Hư" (13) ông Vuơng Hồng Sển dùng tiếng lái
nhiều lần . Thí dụ "bất quá là bá quốc" (trang 465); "ủ tờ" (tiếng lái
của từ ở tù, trang 477); và "mống chuồng" (tiếng lái của "muốn chồng"
trang 519) v.v... Ngoài ra, ở một đoạn khác, để nhắc lại kỹ niệm chuyến
Đông du thăm Đài loan và Nhật của ông và vài người bạn Pháp, cũng trong
sách nầy, ông có ghi lại chuyện ở khách sạn Nhật. Ông và người bạn Pháp
không quen mặc áo kimono đã để sẳn trong tủ cho khách trọ. Ông có dùng
hai tiếng lái, với vẽ đùa cợt mà tôi xin miễn "thông dịch", như đã hứa;
trừ gạch lằn gạch dưới hai tiếng lái là do tôi thêm, nguyên văn câu ông
viết như sau:
"Đến cái áo kimono màu sặc sỡ, mỗi phòng trọ đều có treo sẳn cho khách
mượn, Meken và tôi chưa quen, vừa xỏ tay vào, tấm thân bồ tượng áo che
không khuất, trống trước trống sau, đứa "lù coi" đứa "lắc cọ", áo nhột
nhột, cảnh thật buồn cười" (trang 590).
Công Tử Hà Đông (CTHĐ), báo Người Việt (1), dùng tựa đề "Saigòn Tạp Pín
Lù" (tên một cuốn sách của ông Vương Hồng Sển), để phê bình nội dung
của cuốn "Tự Vị Tiếng Việt Miền Nam" của ông Sển. Bài báo nầy đã kể ra
nhiều tiếng lái. Có tiếng từ sách của ông Sển, đã được tác giả bài báo
trích dẫn như "xe u mê":
"Xe u mê: tiếng lóng để gọi xe thổ mộ, vì sàn xe bằng gỗ cứng, khách
ngồi bệt trên sàn, ê ẩm bàn trôn, nhứt là khách phụ nữ đều phải ê mu,
nói lái cho bớt tục."
Có nhiều tiếng lái khác, và những tiếng đặc biệt được dùng thời tác giả
CTHĐ sống ở Sàigòn. Ông đặt câu hỏi cho chính ông là: "Tại sao tôi lại
không ghi lại với lời giải thích những tiếng, những hành ngữ sinh động,
rung rinh âm thanh, lung linh màu sắc trong tiếng nói của dân tộc tôi,
trong thời đại tôi? "
Ý kiến của ông rất hay vì những từ mà ông kể ra rất độc đáo, vì có tính
cách rất là Sàigòn. Trong số những tiếng đặc biệt đó, có một số là
tiếng lái như: liệng cống, dấm sủ, chai hia, chà đồ nhôm. Xin được trích
dẫn sau đây cụm từ lái chà đồ nhôm , một thành ngữ lái có tính cách
lịch sử, tả cảnh nghèo đói của dân Sàigòn, sau khi được phỏng dái (giải
phóng), phải đem bán bất cứ vật gì có thể chôm (lấy) được trong nhà.
"Chà đồ nhôm: chôm đồ nhà, tiếng Sàigòn những năm sau 1975, ... Thời ấy Sàigòn có câu phong dao:
Đi đâu bỏ con ở nhà?
Hỏi em em nói: Đi chà đồ nhôm
Đi đâu tay xách, nách ôm?
Hỏi em em nói đi chôm đồ nhà." (1)
Giai thoại về nói lái của Trạng Quỳnh: Trong một số sách khác, tôi nhớ
là có đọc một số chuyện vui liên quan đến "Trạng Quỳnh". Ông hay nghịch
ngợm, chọc phá nhiều vị chức sắc trong triều, kể cả con vua và vua nữa.
Đại ý chuyện truyền rằng một hôm nghe công chúa đi dạo ngoài thành.
Trạng Quỳnh đứng đón công chúa ở gần bên một cây cầu. Khi công chúa đi
ngang qua cầu thấy ông trạng nhà ta lấy chân đá nước văng tung tóe. Công
chúa hỏi ông đang làm gì đó? Ông trả lời là ông đá bèo cho vui.
Nhà thơ Hồ Xuân Hương nói lái: Tôi cũng nhớ có đọc nhiều lần trong các
sách (nào đó), thơ của Hồ Xuân Hương (HXH). Nữ sĩ họ Hồ nầy là vua về
thơ lái. Thơ lái của bà được ghi lại trong nhiều sách vở về văn chương
Việt Nam. Gần đây đọc quyển "100 Năm Phát Triển Tiếng Việt" (9), tác giả
Phụng Nghi có ghi lại bài thơ "Kiếp Tu Hành" của nữ sĩ họ Hồ:
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo,
Vị gì một chút tẻo tèo teo
Thuyền tình cũng muốn về tây trúc,
Trái gió cho nên phải lộn lèo.
Ngoài ra tôi còn nhớ vài câu sau đây của HXH: (nhưng không nhớ tựa bài thơ)
Đang cơn nắng cực chửa mưa hè
Rủ chị em ra tát nước khe…
Hoặc: Thú vui quên cả niềm lo cũ
Kìa cái diều ai nó lộn lèo.
Các nhà thơ khác nói lái: Theo sách vừa dẫn (9) thi sĩ Thảo Am Nguyễn Khoa Vy ở Huế có bài thơ như sau:
Nực cổi chi ra nổi cực lòng,
Dòng châu lai láng dĩa dầu chong
Khó đi tìm hiểu nhau khi đó,
Công khó nhờ ai biết có không
Ông Huy Phương (3) trong bài "Nói Lái Mà Chơi" cũng có ghi một bài thơ nói lái nổi tiếng khác của thi sĩ Nguyễn Khoa Vy:
Cầu đạo nên chi phải cạo đầu
Dầu lai dưa muối cũng dài lâu
Na bường bát tới nương bà vãi
Dầu sãi không tu cũng giải sầu
(Ông Huy Phương chú thích: Na bường bát tới = mang bình bát tới, nói giọng Huế)
Ngoài ra trong bài "Nói Lái Mà Chơi" còn có một bài thơ rất hay tựa đề
"Trông Trời" mà Ông Huy Phương nói không biết tác giả là ai.
"Cô kia sao cứ trông trời:
Để tôi xin nguyện làm trời cô trông
Trông trời sướng lắm phải không
Trời mà trông lại còn mong nỗi gì!
Đọc xong bài trên, các bạn có tìm thấy ý nghĩa của tiếng lái không? Nếu
không xin các bạn đọc câu chú thích của ông Huy Phương. Ông có ghi rõ
là bài thơ nầy muốn nói lái phải đọc theo giọng Bắc hai chữ "trông trời"
= "chông chời".
Nói lái bằng câu đối: Trong sách Miền Đất Hứa (10) anh Trà Lũ (tôi gọi
anh vì Trà Lũ là bạn dạy học cùng trường với tôi trước 1975) có ghi câu
đối sau đây, câu đối vừa chơi chữ cách đối vừa chơi chữ bằng cách dùng
tiếng lái:
"Gái Củ Chi, chỉ cu, hỏi củ chi".
Khi nghe câu đối trên, anh Trà Lũ đã kêu cứu "xin các cụ giúp tôi với"?
Quý bạn thừa hiểu là từ Củ Chi đầu là một địa danh gần Saigòn; củ chi
thứ hai ở cuối là câu hỏi (củ nầy là củ chi vậy?) Còn từ chỉ cu vừa là
một động từ, vừa là tiếng lái của cả hai từ cùng âm "củ chi". Cũng trong
sách đó, ở một đoạn sau, Trà Lũ có nói rằng một số đọc giả viết thư
"gà" cho anh 2 câu như sau gọi là đối lại với câu trên:
"Trai Thủ Đức thức đủ xin thủ đức" và
"Trai Bắc cực, bú c., than Bắc cực" .
Anh Trà Lũ cho là câu đối sau nghe "khiếp quá, nhưng phải viết ra trình
cho các cụ chấm cho". Hai câu nầy đại khái, không được chỉnh lắm về
phương diện đối. Hơn nữa chắc bạn tôi vì tính tình xề xòa nên không để ý
rằng tiếng lái của "Bắc cực" là "bức c." chớ không như ông đọc giả nào
đó đã viết. Và nếu dùng từ "bức" thì chắc không có gì "khiếp quá" mà chỉ
hơi hơi táo bạo tí thôi. Chỉ ghi nhận cho vui chớ nào dám chỉ trích bạn
mình, vì tôi cũng bí như bạn. Mười năm qua rồi, trên con đường học hỏi
về lái tiếu lâm, chưa tìm thấy câu nào hay hơn câu Củ chi mà bạn đã kể.
Gần đây đọc bài của Ông Nguyễn Đại Hùng (7) thấy câu Củ Chi được ghi
như sau: "Đến Củ Chi, chỉ cu anh, hỏi củ chi." và câu sau ghi là:
"Về Cù Mông, còng mu em, đòi Cù Mông."
Giai thoại về nói lái để hẹn hò qua câu đối. Gần đây hơn, vào mấy tháng
đầu năm 2002, kể cả tháng bảy, đọc trong báo hằng ngày tôi thường thấy
những tiếng lái, nhưng chỉ là những tiếng rời rạc, cũng vui, nhưng không
lồng trong câu chuyện nào đặc biệt, nên tôi không ghi chép.
Tuy nhiên, trong một buổi tiệc sinh nhật tôi có nghe câu đối có tiếng
lái. Câu chuyện rằng ở miền đồng quê sông Hậu nhân có buổi gặp gở của
các thân hào trong làng. Trong câu chuyện qua lại, người ta nói về thời
sự, đồng án, và văn chương. Có một chàng nọ, trong câu chuyện về văn
chương với một cô, đã nói:
Nguyệt lão xe tơ, chỉ vàng tốt mối
Nàng đã trả lời là:
Đế Thích nhấp chén rượu trắng tái môi
Mới nghe qua, tưởng là chuyện câu đối với các điển tích. Nhưng thực sự
Nguyệt lão và Đế Thích chẳng "ăn nhậu" (liên quan) gì đến hai người nầy.
Họ chỉ hẹn ngày gặp nhau mà thôi. Chàng hẹn nàng tối mốt (tốt mối).
Nàng không chịu, bảo là tối mai (tái môi.)
Nói lái qua câu hò đối đáp giữa trai gái. Miền đồng bằng sông Cữu long,
vào mùa cấy các thợ cấy nam nữ vừa làm việc vừa vui đùa qua chuyện tiếu
lâm, hoặc qua những câu hò đối đáp giữa hai nhóm nam nữ. Ông Nam San
(6) có ghi lại một số câu hò có tính cách rất "tả chân" sau đây, trong
đó có cả luôn câu có tiếng lái.
Nam:
Thấy em gò má ửng hồng
Phải chi em đừng mắc cở thì anh bồng em hun.
Hoặc: Nước Tân Ba chảy ra Trà Cú
Em cấy khum lòi vú anh muốn hun
Phe nữ đáp:
….
Phú Điền có chị Tám Hai
Thuyền quyên hò mí, đối trai anh hùng
Tân Ba, Trà Cú, Phú Điền là những địa danh ở vùng đồng bằng Cữu Long.
Mới đọc câu chót ít ai để ý đến tiếng lái vì gái thuyền quyên mà đối
"trai anh hùng" thì rất là thuận tai và thuận nghĩa. Nhưng "đối trai"
nói lái là đái trôi, vừa có nghĩa đen rõ ràng, khỏi giải thích, vừa có
nghĩa bóng là phe nữ có cách hò thắng phe nam một cách dễ dàng. (Ông Nam
San chú thích rằng: "Hò mí hay hò mép là hò đối đáp, thách thức, dòng
do xuôi ngược, nói lái úp mở nói lên cái ẩn dụ của mình, miễn xuống câu
ăn vận, đúng điệu là được.)
Giai thoại về học sinh "Văn Bình". Trong chuyện chơi chữ của các học
sinh và những nhà nho mà tôi đã đọc, thì chuyện sau đây (tôi nhớ không
được rõ ràng về chi tiết và tên tuổi) nói lên sự đùa cợt bằng tiếng lái.
Chuyện rằng có môt nhà nho nọ văn hay, chữ tốt, thi đậu cao, nhưng
không chịu ra làm quan mà chỉ về vườn vui thú việc dạy học. Có một anh
học trò nọ rất hay chữ và tự cao về tài của mình. Anh ta tên là Văn
Bình. Anh đi tìm nhà nho nọ để thi thố tài đối đáp của mình. Trong lúc
đi trên các con đường quê quanh co, anh ta gặp một ông câu cá, anh ta
hỏi thăm lối đi. Ông câu hỏi tìm gặp nhà nho làm gì? Anh sinh viên đáp
là để đối đáp văn chương. Ngư ông nói nếu anh sinh viên đối được câu đối
của ông thì ông sẽ dẫn đến nhà của nhà nho. Ông giao điều kiện là khi
ra câu đối, ông chỉ nói ra từng chữ một và anh sinh viên phải đối lại
từng chữ một. Anh sinh viên bằng lòng. Những chữ của câu đối là:
"Võ trắc đáo nam cô". Anh sinh viên đối từng chữ là:
"Văn bình lai bắc cụ"
Vì khi đối là đối từng chữ một nên anh sinh viên không thể biết nội
dung của cả câu. Khi xong, ngư ông bảo anh sinh viên đọc cả hai câu xem
nghĩa là gì và giải thích cho ông nghe. Đọc lại, thấy câu đầu vô nghĩa.
Nhưng đọc câu thư hai xong, Văn Bình vốn rất thông minh, biết ông câu
dùng lối chơi chữ lái để nhạo anh ta. Anh ta cũng nhận ngay ra rằng
chính ông câu là nhà nho mà anh đang tìm. Tôi không nhớ đoạn kết của câu
chuyện nầy ra sau, và cũng không nhớ đã đọc ở sách nào.
Giai thoại Mã Qui – Qui Mã: Phần cuối của việc trích dẫn sách, có hai
tiếng lái đã thành giai thoại rất hay. Trong Giai Phẩm Xuân Nhâm Ngọ
Người Việt, Công Tử Hà Đông (1) có viết bài Mã Qui và Qui Mã . Năm ngọ
nói chuyện mã là đúng quá rồi. Tác giả cho biết là hai từ nầy và câu
chuyện liên hệ là do một "cây cười nhân dân nào đó ở Hà Nội" viết ra để
làm chuyện tiếu lâm. Chuyện đại ý là vào đầu thập niên 1980, kinh tế VN
xuống dóc phi mã, thê thảm. Người cầm đầu đảng và nhà nước vì lo lắng
quá nên đến đền Ngọc Sơn ăn chay xin thần linh báo mộng giúp biện pháp
cứu nước. Hai người đều được thần báo mộng. Người đầu thấy con ngựa và
con rùa, người kia thì thấy con rùa và con ngựa. Tuy vô thần, nhưng tin
mộng và tin .. thầy giải mộng. Hai người bèn nhờ thầy giải thích hộ.
Thầy giảng rằng rùa là qui, ngựa là mã. Ông đầu thấy rùa và ngựa tức
thấy qui mã, ông sau thấy ngựa và rùa tức thấy mã qui. Vậy theo điềm
mộng thì thần có ý cho hai ông biết là: "muốn cứu vãn nước nhà hai ông
phải qua Mĩ xin Mĩ (a) nó giúp, bao giờ Mĩ (a) nó qua nước mình thì tình
hình nước mình mới khá được". Tác giả bài báo cũng có viết rằng là
chuyện tiếu lâm (nói lái) nầy đã ra đời từ những năm đầu của thập niên
1980, khi chưa có dấu hiệu nào cho biết rằng Mỹ sẽ bang giao với VN. Tác
giả bài báo đó viết tiếp là: "Hai mươi năm sau, chuyện mã qui qui mã
thành sự thật." Chú thích ( a) do tôi thêm: các từ Mĩ nầy dùng " Ĩ " vì
tiếng lái của qui mã = qua mĩ , và mã qui = mĩ qua).
Với những trích dẫn vừa qua, chúng ta thấy văn chương, văn thơ, trong
sách báo hay video đều có nói lái rải rác đó đây từ Bắc chí Nam, từ quốc
nội đến hải ngoại.
Những lối nói lái qua tiếu lâm truyền khẩu, hoặc được ghi chép lại.
Phần tiếp theo đây tôi sẽ ghi thêm những tiếng lái hay câu lái do tôi học hỏi hay lượm lặc trên con đường "tiếu lâm lái".
Nói lái trong câu đố: Lúc tôi còn nhỏ, tôi biết được những tiếng lái đầu tiên qua các câu đố . Thí dụ các câu đố sau đây:
a) – Ông cố ngoài Huế ông cố ai? (xuất vật)
b) – Ông đánh cái chen, bà bảo đừng? (xuất vật dụng) .
Hoặc c) – Ghe chày chìm giữa biển đông, cái nốc nó mất cái công nó còn.(xuất vật) .
Câu a) là "cái ô"; vì cố ai = cái ô. Câu b) là cái "chân đèn"; vì
"chen…đừng = chưng đèn. Câu c) là "con còng", vì "công còn = con còng.
Nói Lái tên thú vật: Các câu sau đây nói lái về thú vật, thức ăn, địa danh, hay nói đùa cho vui:
Con óc con nhện , con ếch con nhọng;
Con cò con sóc, con cóc con sò;
Con công con rùa, con cua con rồng;
Con cáo con bò, con cò con báo.
Hoặc: Con cá đối nằm trên cối đá;
Ông cò Lửa đứng ở cửa lò.
Bên trên trong phần trích dẫn video đã có rất nhiều tiếng lái về thú vật.
Nói lái về các loại canh: Về thức ăn, trong bửa cơm của VN thường có ba
món chánh: món mặn, món xào và món canh. Sau đây là câu lái đùa về
canh:
"Anh Câu Bành đánh lộn với anh Kí Banh, ông Cai Cảnh làm biên bản, giải
lên ông Cai Khoanh để thụ lý. Các câu trên thật ra là tên của bốn loại
canh: canh bầu, canh bí, canh cải và canh khoai.
Nói lái về các địa danh: Về địa danh chúng ta có một số câu sau đây:
Chợ Thủ Đức năm canh thức đủ;
Chợ Đồng Tranh năm canh đành trông
Hoặc: Ra Thủ Đức năm năm thức đủ
Về Giồng Trôm tháng tháng dòm trông (4)
Hay các câu sau:
Đi chợ Búng coi chừng chúng bợ
Đến Hạ Long rát cổ họng la
Lên Bắc cạn, nghèo đành bán c. t
Vào Ba Thê cuộc sống bê tha
Vượt sông Đuống, xuống Đông lên bắc
Trèo Đèo Ngang trong lúc đang nghèo
(còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét