Loài
người là tối linh trong muôn vật nên có trí tuệ, đạo đức, tâm tư tình
cảm... chẳng những làm đẹp về cuộc sống của bản thân và gia đình, còn
chế ngự phần nào trở ngại thiên nhiên, để cải thiện và canh tân nếp
sinh hoạt xã hội. Đặc biệt con người sống có gia đình thì cha mẹ, con
cái, trên từ hòa dưới hiếu thuận, yêu thương đùm bọc sống chết có nhau.
Cha mẹ thương con không bờ bến là thiên chức làm người, con cháu hiếu
kính với ông cha là đạo lý muôn đời qua không gian và thời gian, kể cả
sinh vật cũng có được phần nào, đó là lẽ sinh tồn của vạn loại. Con
người là giống hữu tình, đương nhiên phải sống bằng tình cảm thiên
liêng, khác với bản năng sinh hóa của muôn vật.
Cha mẹ là ân nhân bậc
nhất, thì hiếu đạo cũng đứng hàng đầu trong mọi nết đẹp của thế nhân,
là lẽ sống, là quan niệm của người đời: „Hiếu kính đứng đầu trăm nết
đẹp“. Do đó nên giai tiết Vu Lan, một tiết lễ của Phật Giáo có trên
tinh cầu hơn 26 thế kỷ vẫn thích ứng với người muôn đời, đã thành ra
truyền thống đẹp trong văn hóa nhân sinh như ngày Mother's Day và
Father's Day của người Âu Mỹ ngày nay vậy.
Mùa Vu Lan báo hiếu, chúng ta có thể tìm hiểu rộng rãi qua phẩm Vu Lan,
Kinh Trường A Hàm hay Kinh Pháp Hoa... để rõ về ân nghĩa sinh thành,
và lòng hiếu kính đối với thất thế phụ mẫu, lịch đại tiên linh, vì
chúng ta đã thừa hưởng của chư vị nhiều phước báo cao cả, nhiều công
đức thâm hậu rất khó nghĩ bàn. Có thể khi chúng ta ở vào cương vị cha
mẹ, ông bà, mới thấm thía được phần nào thiên chức của con người trong
gia đjình và quê hương, xã hội, qua tâm niệm của người xưa: „Dưỡng tử
phương tri phụ mẫu ân“. Ca dao Việt Nam cũng có câu đồng nghĩa:
„Lên non mới biết non cao
Nuôi con mới biết công lao song đường“
DUYÊN KHỞI
Một trong 6 phẩm của kinh Tam Bảo là phẩm Vu Lan, nói rõ về xuất xứ của
Đại Lễ Vu Lan – Rằm Tháng Bảy – và đề cao hiếu hạnh của Đức Đại Hiếu
Mục Kiền Liên. Mục Liên Tôn Giả là vị đại đệ tử của Đức Thích Ca Như
Lai, nguyên là giáo chủ của Bái Hỏa Giáo. Tôn Giả được lên ngôi cao
quý đó, phần lớn do sự hỗ trợ tích cực của mẹ là bà Thanh Đề. Bà thuộc
giai cấp quý tộc ở Ấn Độ, muốn cho con hiển đạt và danh vọng hơn
người, nên đã vận dụng tiền tài thế lực, kể cả việc trừ khử những đối
thủ, gây tội lỗi với nhiều người đương thời, xúc phạm đến thánh hiền,
do đó sau khi chết bà phải đọa vào Vô Gián địa ngục, làm kiếp ngạ quỷ,
khốn khổ triền miên!
Đức Mục Kiến Liên là một thức giả đương thời, Ngài xem thường danh lợi
địa vị mà đặt nặng việc tu tiến, khi nghe Đức Phật là đấng đạo cao đức
trọng được thế nhân kính ngưỡng tôn vinh, nên Tôn Giả đưa tín chúng
đến xin thọ giáo quy y, sáp nhập Tăng Đoàn của Như Lai, lần hồi Tôn
Giả trở nên vị đại đệ tử thần thông bậc nhất, Ngài trưởng lão Xá Lợi
Phất là bậc trí huệ tuyệt vời!
Do hiếu hạnh cao cả lại có phép thần thông diệu dụng, Tôn Giả quán
chiếu, biết mẹ mình đang thọ khổ nơi âm cung, nên Ngài đích thân đến
viếng và dâng cơm cho mẹ. Có thể do nghiệp lực bà Thanh Đề quá nặng,
hay tại cảnh giới ngạ quỷ không cho phép các tội hồn thọ dụng phẩm vị
bất cứ từ đâu đến nên cơn hóa thành lửa, trước tình mẫu tử thân thương
mừng mừng tủi tủi, phép thần thông của Tôn Giả khó chuyển biến lý
nhân quả, nên Ngài cũng đành chịu! Ngài xót xa từ giã mẫu thân, trở về
thỉnh ý Như Lai, xin tìm phương tế độ.
PHẬT DẠY:
Mẹ ông tội lỗi sâu dày, mặc dù ông phước trí trang nghiêm, hiếu hạnh
vẹn toàn nhưng chưa chuyển hóa được, nên phải nhờ sức chú nguyện của
Mười Phương Thánh Tăng trong ngày Tự Tứ vào Giai Tiết Vu Lan. Nhân
ngày chư Phật hoan hỷ, Chúng Tăng tự tứ, ông nên phát tâm tác tạo
phước duyên, cúng dường bố thí, hoằng pháp lợi sanh, để nhờ công đức
tinh tụ tịnh hạnh sau mùa An Cư Kiết Hạ, nên nguyện lực của chư vị
càng cao, hồi hướng công đức để chuyển hóa tội lỗi của mẹ ông. Khi tội
hồn đã tỉnh ngộ, thành khẩn sám hối, niệm Phật cầu vãng sanh, thì
nghiệp chướng tiêu trừ, căn lành tăng trưởng. Chư Phật và Bồ Tát cũng
đều hoan hỷ phóng quang tiếp dẫn về Tây Phương An Lạc Độ của Phật A Di
Đà. Các Phật tử vì kẻ mất người còn mà thành khẩn thực hành hạnh lợi
tha thì cha mẹ nhiều đời, gia thân quyến thuộc, rộng ra là thân hữu
đồng hương, hay các giới hữu tình cũng sinh tâm hoan hỷ, dũng tiến
trên đường, là tạo nhân lành hay tạo sẵn tư lương rất cần cho mai hậu,
những người quá cố, thập loại cô hồn cũng quân triêm thắng phước.
Ngài Mục Kiền Liên và Đại Chúng „y giáo phụng hành“. Truyền thống Vu
Lan báo hiếu khởi đầu từ đó. Trong Kinh Trường A Hàm, Đức Phật khuyến
thị chúng ta thực thi các hạnh Bố Thí, Ái Ngữ, Lợi Hành, Đồng Sự là
cách báo hiếu tốt đẹp nhất.
BỐ THÍ:
Bố thí cho người bằng tâm hạnh hoan hỷ, cử chỉ vui hòa nhã nhặn như
giúp người tìm đường đi, hay giúp kẻ bơ vơ kiếm việc làm. Khi gặp
thuận duyên nên giúp người già lão neo đơn, giúp người tàn tật ốm đau,
giúp trẻ côi cút bần hàn... chút vật chất để an ủi nhau trong cuộc
sống khó khăn. Giúp ích cho người, làm lợi lạc sinh linh, đương nhiên
cha mẹ cũng vui lòng đẹp ý đã tạo ra người hữu ích cho thế nhân!
ÁI NGỮ: Lời nói dịu ngọt nhưng chân thành, dễ cảm thông với nhiều hạng người. Ca dao Việt Nam có câu :
„Lời nói không mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau“
Cũng là lối xã giao khôn khéo biết dường nào!
LỢI HÀNH:
Sốt sắng và tạo thói quen làm việc lợi ích cho bản thân, gia đình như
giúp đỡ cha mẹ những việc thông thường; rồi đến việc tộc thuộc, thôn
trang, quốc gia, xã hội... thấy điều cần thiết ta nên tùy khả năng
thực hành hạnh lợi tha là nghĩa vụ làm người.
ĐỔNG SỰ:
Công việc phải làm với nhau nên vui vẻ chung cùng là tạo tinh thần hợp
tác, gây tinh thần đoàn kết thân thương nhau để hoàn thành trách
nhiệm. Suy ra việc phụng dưỡng cha mẹ khi ốm đau già yếu, anh chị em,
dâu rể, con cháu vui hòa thân mật thì trong ấm ngoài êm, hiếu đạo chu
toàn. Nếp „tề gia“ xử thế được lưu truyền êm đẹp qua mấy nghìn năm văn
hiến của người Á Đông vậy.
Thượng Tọa Thích Nhật Từ có trích dẫn đại ý lời Phật dạy trong kinh Pháp Hoa:
* Người hiếu tử sống đúng với tư cách một con người trong gia đình:
Người con là một phần tử trong gia đình nên cố gắng gìn giữ hiếu đạo,
gia phong. Cha mẹ dày công sinh dưỡng giáo hóa các con khi người còn
trẻ cho đến lúc lưng còng tóc bạc, nên các con phải hòa ái nhường nhịn
nhau nhất là chung nhau cung kính, hiếu dưỡng cha mẹ khi cần. Tùy theo
nếp sống gia đình tập quán xã hội mà ta có những ngôn từ, thái độ
thích hợp với cha mẹ. Ngoài ra chúng ta còn phải suy tư, cân nhắc khi
ứng xử với đời để bảo toàn nề nếp gia phong. Cổ nhân có câu “Giấy rách
phải giữ lấy lề“ hay „Đói cho sạch, rách cho thơm“ ý nói dù gặp cảnh
ngộ nào đi nữa người biết tự trọng không làm điều gì sai quấy để người
đời mai mỉa, làm mất thanh danh của tổ tông cha mẹ mình. Câu nói:
„Con nhà công không giống lông cũng giống cánh“ ngụ ý tốn kính tiền
nhân mình, khi ta làm điều tốt, hay chê trách đến ông bà cha mẹ đã an
giấc nghìn thu nhưng có con cháu buông lung hư hỏng vậy!
* Người hiếu thảo là người con sống đúng với chánh pháp:
Người con vâng lời hay lẽ phải của cha mẹ khuyên bảo là tốt, người
biết học hỏi và trau giồi nhân cách để thăng hoa trên đường đời càng
tốt hơn. Trong cuộc sống thế nhân mấy hạng người trên đều được ca ngợi.
Nhưng có một lớp người vừa cố gắng tu thân hành thiện lại hướng về đời
sống tâm linh, họ tu tập đạo đức, sống theo hạnh từ bi của chư Phật,
hỷ xả của Thánh nhân, biết đủ là đủ và dành phần còn lại, để làm việc
lợi tha. Họ kính hiền trọng đạo, luôn hoan hỷ chấp nhận cuộc sống
thanh đạm và an lạc là nếp sống hạnh phúc bản thân, nên họ tôn trọng
hạnh phúc và cuộc sống an lành của tha nhân vạn loại. Họ nghĩ rằng,
cứu giúp được phần nào khổ đau của người bất hạnh là hàng trí dũng,
nên họ không từ nan. Họ không cố chấp, xả bỏ chuyện thị phi của nhân
thế, nên dễ tránh được sự đam mê dục lạc ngoài đời, đó là lớp người
„Cư Trần Bất Nhiễm“ tức là sống đúng với Chánh Pháp, bởi lẽ:
„Trăm năm trước thì ta chưa có Trăm năm sau có cũng bằng không Cuộc đời sắc sắc không không
Còn chăng chỉ một tấm lòng mà thôi“
* Người con hiếu phải hướng cha mẹ về Chánh Pháp Phật Đà:
Hiếu kính cha mẹ, làm đẹp ý song thân... có thể nói đó là tinh thần
của hiếu hạnh. Hiếu dưỡng cha mẹ, cung ứng nhu cầu về cuộc sống cho
người, đó là hiếu hạnh về vật chất cả 2 đều là chuyện hiếu của thế nhân.
Trường hợp người con hiếu sống đúng với chánh pháp mà chưa tìm cách
hướng cha mẹ đi cúng đường với mình e có điều thiếu sót chăng?. Bởi lẽ
tự thuở xa xưa vấn đề tu học chưa phổ cập, nên thiểu số người cố chấp
chưa chịu cởi mở trong cuộc sống. Họ chưa quy y Tam Bảo, chưa rõ lý
nhân quả nên nhiều người đã nói: „vật dưỡng nhân“ và quả quyết cho
rằng không ăn huyết nhục của sinh vật sẽ bị yếu vong. Thậm chí có
những câu về ăn uống vu vơ mà các bậc thường nhân thường dè dặt tối
đa, vì các vị quan niệm „ăn để mà sống, chứ không phải sống để mà ăn“,
hay người có tâm lành nghe thấy con vật kêu la vùng vẫy khi bị hạ thịt,
nên không nỡ ăn thịt chúng, vì họ cảm thông về sự đau thương chết
chóc và nỗi oán hận về kẻ mạnh đã nhẫn tâm cắt đứt cuộc sống bầy đàn
của chúng. Chúng tôi mạo muội nêu ra câu “Bệnh tòng khẩu nhập, họa do
khẩu xuất“ với nghĩa đơn giản là ăn uống không cẩn trọng tất dễ sinh
bệnh, nói năng không dè dặt có khi mang họa, chứ mấy chữ „vật dưỡng
nhân“ không rõ xuất xứ nơi nào?
* Người con hiếu là thiện tri thức của cha mẹ:
Ngoài đời ai cũng muốn ăn no mặc đẹp, rồi lúc hoàng cảnh cho phép người
ta chủ trương ăn biết mùi. Mặc đúng kiểu để trở nên người lịch lãm;
cũng có người sống theo cách „biết đủ là đủ“ họ vui với kịch tính, đạo
đức để dinh dưỡng tinh thần, lại lo giải thoát tâm linh là hàng thức
giả thanh cao. Thế nhân thiếu gì bậc minh quân lương tướng chí sĩ văn
nhân khi hoàn thành nhiệm vụ hộ quốc an dân, chư vị sống ngoài vòng
danh lợi để thân an tâm lạc là tiên cảnh giữa trần gian, hay nói theo
nhà Phật và Tịnh Độ hiện tiền. Người con chí hiếu hay bậc thức giả lo
tu thân hành thiện, biết phổ biến Chánh Pháp cho cha mẹ và người thân,
biến gia đình thánh thiện rồi xóm làng thuần lương, thì họ là người
thiện tri thức của cha mẹ, gia đình và xã hội đúng như câu:
„Nhất nhân tác phước thiên nhân hưởng,
Độc thụ khai hoa vạn thụ hương“
Với đại ý:
Một người gieo phước, nghìn người chung hưởng, Một cây nở hoa, nhiều cây cùng thơm vậy“
Những Truyền Thống Đẹp Trong Mùa Vu Lan
1. Vu Lan:
Là mùa cầu siêu độ cho Tiên linh quá cố, các chiến sĩ trận vong, sinh
linh tử nạn, cùn gvới thập nhị loại cô hồn và cầu an cho tứ thân phụ
mẫu tại thế, thân bằng quyến thuộc hiện tiền được thân an tâm lạc dũng
tiến trên đường tu học để tự lợi lợi tha. Vu Lan Bồn phiên âm từ Phạn
ngữ Sanskrit hay Ulambana, người Trung Hoa dịch là „Giải Đảo Huyền“
với đại ý giải thoát cực hình treo ngược tội nhân trong địa ngục và sự
thống khổ ở các cảnh giới ngạ quỷ, súc sinh. Nói chung thì địa ngục,
ngạ quỷ, súc sinh là „Tam ác đạo“ nghĩa là 3 đường dữ để các tội hồn
phải chịu quả khổ đã gây ra.
Luật nhân quả rất phân minh, chúng ta nguyện cầu để nhờ uy lực của Tam
Bảo, của chư Tăng Ni thanh tịnh sau 3 tháng an cư kiết hạ dư lòng lân
mẫn chuyển hóa các tội hồn biết thành khẩn sám hối, mới mong thoát
khỏi cảnh thống khổ triền miên như Tôn Giả Mục Kiền Liên đã tha thiết
thỉnh giáo Như Lai, rồi quyết tâm thực hiện trong việc cứu độ Mẹ hiền.
Những dịp tiết lễ con cháu thường nguyện cầu cho các thân nhân hiện
tại, gần nhất là cha mẹ được sống vui vẻ an lành, thì hàng tôn trưởng
phụ huynh nên vui với hiếu tình của lớp trẻ mà phát tâm lành làm việc
nghĩa cho đẹp đạo tốt đời, tức là có sự nhất trí trong gia đình, cảm
ứng với chư Phật và các đấng thiêng liêng thánh thiện, đương nhiên
người được cầu sẽ an tâm, ý hảo, gia đạo hài hòa. Kiết tường như ý.
Đã là con người ít ai tránh khỏi lỗi lầm sai quấy, gặp thuận duyên
chúng ta tinh tấn sửa đổi, nguyện cố gắng tu trì như cổ đức đã nói:
„Người không sợ có lỗi, chỉ sợ có lỗi mà không biết đổi“ hay lớp người
cầu tiến thường noi gương thầy Trình Tử, một trong các bậc cao hiền
của Nho Giáo đã coi trọng việc lập chí tiến tu: „Nhất nhật tam tĩnh
ngô thân“ với hậu ý hằng ngày phải tự tĩnh 3 lần, mong thành người tài
đức kiêm ưu. Trường hợp chúng ta chủ quan không đặt nặng việc sửa
mình, xem nhẹ về gia sự thế tình, khác gì người bệnh được thân nhân
tìm thầy chữa thuốc, lại gặp bác sĩ tận tình xét nghiệm và quan tâm trị
bệnh, nhưng bệnh nhân hờ hững, không thuốc men chu đáo để chứng bệnh
trầm kha, thật đáng tiếc lắm thay!
2. Mùa An Cư Kiết Hạ: Sau khi thành đạo, Đức Phật đi hoằng hóa để phổ độ chúng sinh:
„Nhất bát thiên gia phạn
Cô thân vạn lý du
Kỳ vị sanh tử sự
Giáo hóa độ xuân thu“
Với đại ý:
Chiếc bát nhận phẩm cúng
Một mình đi khắp nơi
Lý tưởng của cuộc sống
Luôn phổ độ chúng sinh.
Ngài
là bậc hào kiệt của thế gian, vị siêu nhân khắp 3 cõi, nhưng sống
thanh đạm theo hạnh vị tha đáng ngưỡng vọng tôn thờ, nên Ngài thu hút
tín chúng đông đảo. Mùa hè ở Ấn Độ mưa gió liên miên, đương thời y áo
cá nhân còn thiếu thốn, sự giao thông lắm trở ngại, cũng lá lúc loài
thấp sinh sanh nở, đi lại giẫm đạp làm thương tổn mạng sống của chúng,
nên Phật chế ra phép an cư kiết hạ 3 tháng để giáo đoàn cấm túc tu
học, cùng nhau thực hiện nếp sống thiền môn thanh tịnh, đạo vị thanh
cao, vừa ôn cố tri tân, vừa sáng tác văn phẩm để phổ biến công hạnh
của mình và lưu di cho hậu thế. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy nhiều Bối
Diệp Kinh Văn là bút tích ghi trên lá bối, đã xác minh việc tu học của
Tăng Ni trong mùa An Cư là cần thiết.
3. Ngày Phật hoan hỷ, ngày Tăng Tự Tứ: Sau 3 tháng an cư, các vị câu h i
để kiểm điểm công hạnh của cá nhân, cầu Phật chứng minh, cầu thầy bạn
góp ý xây dựng cho mình, trường hợp vị nào có chút khuyết điểm thì
hoan hỷ sửa đổi cho hoàn thiện hơn gọi là lễ Tự Tứ. Sau ngày „Tăng Tự
Tứ“, người được thầy bạn chấp nhận kết quả tốt sẽ được tuyên dương, là
thăng hoa một bước trên đường tu học, tức là được gia tăng một tuổi
đạo, do đó Vu Lan còn là mùa Hạ Lạp trong Phật Giáo. Tỷ như một vị
Tăng hay Ni sau khi liễu đạo được tính tuổi thọ 80, hạ lạp 60 tức là
Ngài hưởng tuổi đời 80, có 60 năm hoằng dương chánh pháp, lợi lạc hữu
tình vậy. Phật chế giới pháp để tăng đoàn tinh tấn tu trì, làm lợi lạc
sinh linh. Lời Phật dạy: Giáo pháp còn, đạo ta còn“ giờ Phật nhập
Niết Bàn hơn 25 thế kỷ rưỡi nhưng Đạo Pháp gặp thuận duyên phát triển
khắp nơi nơi, tứ chúng thuần lương, nhân sinh thăng tiến, ngưòi con
thêm hiền hiếu, nhiều người biết giới sát phóng sinh... đương nhiên Vu
Lan thắng hội, ngày kết thúc 3 tháng An Cư là ngày Phật hoan hỷ, ngày
Tăng Tự Tứ, ngày siêu độ hương linh: „Tháng Bảy ngày Rằm xá tội vong
nhân“.
4. Ngày Bông Hồng Cài Áo: Phật
giáo không lập dị, sống xa quần chúng, nên cận lai rút mỹ tục tặng
hoa của các quốc gia trên thế giới, người ta đã chuyển đổi thành tập
tục cài hoa hồng trong giai tiết Vu Lan, nói lên niềm cung kính hướng
vọng Từ Thân người đối diện với mình.
Những ai còn Mẹ sẽ được cài Hoa Hồng Thắm, ngụ ý chúc thọ bậc cao niên
có phước đức, sinh người hiền hiếu và mừng người trực diện với mình
được vui vẻ chung sống với mẫu thân, hay còn được cung phụng mẹ hiền;
những người Mẹ đã mất được cài Hoa Hồng Trắng, nói lên sự thương tiếc
người đối diện đã mất đi bậc kính quý thân thương, nên chung lời cầu
nguyện và tác tạo phước duyên, hồi hướng cho người ra đi được tiêu
diêu miền Cực Lạc.
TÌM HIỂU VỀ TÌNH ĐỜI NGHĨA ĐẠO
Trong Giai Tiết Vu Lan
Thế
nhân thường chủ quan, nhưng Phật giáo chủ trương có nhân quả luân
hồi, nên mới có ;Nhân nhân nan đắc, Phật Pháp nan văn“ nghĩa là ai hân
hạnh lắm mới có được thân người với lục căn đầy đủ, phước trí vẹn
toàn, lại tinh thông Phật Pháp, am tường kinh sách, triết lý của thánh
hiền là một việc khó.
Cổ nhân cũng đề cao con người là thiêng liêng nhất trong sinh linh vạn
loại (thiên sinh vạn vật, nhân chi tối linh). Thật vậy, trên hành tinh
của chúng ta ngày một tiến phát thăng hoa, phải nhờ bàn tay khối óc
con người xây dựng và phát triển. Nhờ văn minh khoa học, con người có
thể lên rừng, xuống biển khảo sát, tìm cách xử dụng thiên nhiên, họ
thám hiểm cả đại lục, không gian để vén màn bí mật của tạo hóa.
Có tài trí, lại thêm đức hạnh vẹn toàn, con người sẽ thành hàng thánh
thiện, hay trở nên hiền quân quân tử, nên tôn giáo và các học thuyết
dần dần xuất hiện, ngõ hầu hướng đạo thế nhân khéo sử dụng phần tâm
linh và thăng hoa tư tưởng, để phong phú hóa nếp sống vật chất và tinh
thần. Tự cổ chí kim, từ đông sang tây, biết bao gương sáng về „Xử Kỷ
Tiếp Vật, Tình Nghĩa Hiếu Trung“, nhân mùa Vu Lan chúng tôi xin mạn
phép nhắc lại và tô điểm thêm những điều hiếu kính của người muôn nơi,
kể các các đấng quân vương, hàng dân giả, cho đến những trẻ em năm ba
tuổi, đã biết nhõng nhẽo làm vui cho cha mẹ.
* Kinh điển Phật giáo thường đề cao hiếu đạo: „Tâm
hiếu là tâm Phật; hạnh hiếu là hạnh Phật“, hay lời Phật dạy: „Người
quên ơn dù đứng bên cạnh ta, vẫn xem như cách ta nghìn dặm“. Phải
chăng Phật giáo thường đặt nặng „Bốn Trọng Ân“ mà cha mẹ là hàng chính
yếu.
* Các bậc cao niên Nho giáo đã nêu cao ân đức sinh thành:
„Phụ hề sinh ngã, mẫu hề cúc ngã, ai tai phụ mẫu, sinh ngã cù lao,
dục báo thâm ân, hiệu thiên vọng cực!“. Với đại ý: Cha sinh ta, mẹ dưỡng
ta. Than ôi cha mẹ khó nhọc vì ta, muốn tìm hiểu để đền đáp thâm ân,
như trông vời xa thẳm!“.
* Các thi văn khắp nơi đã đề cao ân đức sinh thành:
- “Trong vũ trụ có lắm kỳ quan, nhưng kỳ quan tuyệt hảo vẫn là quả tim của người mẹ“ (Bersot).
- “Nơi ẩn náu vững chắc nhất, là cung lòng người mẹ“ (Floriand).
- “Trong đời con có những ngày buồn thảm, nhưng buồn thảm nhất là ngày con mất mẹ“ (Amicis).
* Nhà thơ Giác Trí trong bài Tâm Hiếu đã tha thiết nêu cao ơn cha nghĩa mẹ:
„Vu Lan tuyệt đẹp vô vàn
Ơn cha nghĩa mẹ ngút ngàn non cao
Trên trời có vạn vì sao
Xin đem dâng hết đón chào Vu Lan“.
* Đôi vợ chồng nghèo, nhất trí xây lăng một để phụng thờ Tứ Thân Phụ Mẫu:
„Công cha ba năm ân ưu dưỡng dục
Nghĩa mẹ chín tháng nặng nhọc cưu mang. Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn,
Biết lấy chi đền nghĩa khó khăn?
Thôi thì đôi ta hãy lên non gánh đá, xây lăng phụng thờ“.
* Nhà thơ Mặc Giang luôn hồi tưởng bóng hình cha muôn thuở:
„Cha tôi đó, ôi tình cha muôn thuở,
Nhờ bóng hình cha, tôi mới có hôm nay. Dù cha tôi không niềm nở từng ngày,
Nhưng vẫn trơ gan cùng phong sương tuế nguyệt.
Bến bóng bụi mờ – Đêm dài nuối tiếc
Bên dòng lịch sử – Băng giá lên ngôi
Bên dòng sông xưa – nay lở mai bồi
Còn đó mãi – bóng hình cha muôn thuở!“.
* Mục sư Anna Yarvis
vừa là một nữ giáo viên, vận dụng khả năng hiện hữu để tổ chức đại lễ
truy niệm ngày mẹ qua đời. Khởi đầu chỉ thu gọn ở Philadelphia, nơi
Anna Yarvis coi việc quản thủ sổ sách cho một hãng bảo hiểm. Mãi đến
năm 1914 được Tổng Thống Woodrow Wilson chấp nhận thành lễ Mother's
Day khắp toàn quốc Hoa Kỳ vào ngày Chủ Nhật thứ nhì của tháng May.
* Do đề xuất của bà John B. Dodd
ở Spokane, Washington, từ năm 1910. Sau đó ngày lễ „Các Bậc Thân
Sinh“ đã được vị Thị Trưởng Spokane chấp nhận. Năm 1924 được Tổng
Thống Calvin Coolidge đồng ý hỗ trợ. Mãi đến năm 1966 lễ Father's Day
được tổ chức hàng năm vào ngày Chủ Nhật thứ ba của tháng June trên
lãnh thổ Hoa Kỳ, do Đạo Luật số
92-278 ngày 24 tháng 4 năm 1972.
* Bên Trung Hoa có vua Thuấn,
thuở hàn vi đã cày ruộng ở Lịch Sơn để có chút vật chất cung phụng
cha mẹ, sau khi mẹ mất, ông vẫn hiếu kính với mẹ kế và thương yêu các
em dị bào.
* Hán Văn Đế
con thứ ba Thượng Hoàng Cao Tổ, mẹ là Bạc Hậu, ngọa bệnh 3 năm, nhà
Vua luôn hầu hạ, tự tay thuốc thang cung phụng mẹ hiền. Mẫu Hậu nhắc
nhở gì về việc triều chính, Hán Văn Đế ghi lòng tạc dạ, giải quyết
phân minh.
*Chu Văn Vương
hàng ngày đến viếng Phụ Vương 3 bận, Người thăm hỏi sức khỏe, luôn
theo dõi những thức ăn và công việc thường nhật của Thượng Hoàng, để
nhắc nhở quân hầu tận tình phục vụ.
*Việt Nam có vua Trần Anh Tông
được Thái Thượng Hoàng Nhân Tông truyền ngôi năm Quý Tỵ (1293).
Thượng Hoàng về cung Thiên Trường (làng Tức Mạc, tỉnh Nam Định, Bắc
Việt) hưu dưỡng, vừa chuẩn bị xuất gia cầu đạo, vừa cố vấn cho Ấu Chúa
Anh Tông. Nhân gặp tiết Trùng Dương, Thượng Hoàng bất thần hồi cung
thăm viếng, Vua Anh Tông lỡ uống rượu ngà ngà không dám nghênh tiếp và
hầu ngọ trai. Thượng Hoàng buồn truyền xa giá trở về Thiên Trường,
lập tức vua Anh Tông sai Đoàn Nhữ Hài thảo sớ văn, cùng một phái đoàn
về Thiên Trường quỳ lạy trước cổng để tạ tội và tâu với Phụ Hoàng xin
chừa rượu trước sự chứng kiến của quan quân!
* Vua Tự Đức
(1848-1883) cũng lắm lúc sắc thuốc dâng lên Mẫu Hậu, có lần vua đi
săn ở vùng sơn cước Quảng Trị, gặp bão tố không quay về được để chuẩn
bị hầu kỵ Thượng Hoàng Thiệu Trị. Tại triều, Đức Từ Dũ lo lắng bất an,
khi ngự đoàn hồi cung, Dực Tông Anh Hoàng Đế thấy Mẫu Hậu không vui
nên đích thân quỳ lạy tạ tội và dâng cây roi để Đức Từ Dũ xử lý như
buổi thiếu thời! Thứ dân chúng ta đã mấy ai làm được điều như các vị
quân vương đời Trần, đời Nguyễn ?
* Trong Nhị Thập Tứ Hiếu có chuyện Chu Thọ Xương người Thiên Trường đời Tống, do đích mẫu không con nên cha cưới
kế thất là Lưu Thị, sinh ra ông rồi nuôi dưỡng học hành chu đáo. Khi
Thọ Xương lên 7 tuổi rất thông minh đĩnh ngộ, đích mẫu ghen ghét đuổi
lưu Thị biệt xứ, mãi đến 50 năm sau, Chu Thọ Xương xuất chinh mới chu
đáo hỏi tìm, nên hay biết mẹ lưu lạc tới Đồng Châu đất Tần! Ông xin từ
quan tìm gặp mẹ, hiếu tâm của ông được truyền tụng, nên nhà Vua ban
chiếu triệu về kinh cho tiếp tục công vụ.
*Qua tiểu truyện „Chơn Hà Tìm Mẹ“
do Ni Cô Thích Nữ Viên Hạnh biên soạn, xuất bản năm 2002 tại Utah, y
hệt chuyện „Thọ Xương Tầm Mẫu“. Bà Lựu người Huế mồ côi cha mẹ ở với
anh ruột là „ông Xã Bị“, Xã Trưởng Vạn Trường Xuân, Quảng Trị, bà có
nhan sắc mỹ miều, sống trong thời chiến tranh khốc liệt triền miên
1945-1975. Sợ em gái bị hiếp đáp bởi quân viễn chinh đương thời, hay
gái đẹp thường bị ép làm binh vận, ông Xã Bị gả cô Lựu làm bé quan
Tuần Vũ kiêm Án Sát Quảng Trị, sinh ra Chơn Hà, Tạ Thị Hải. Cũng cảnh
ngộ như mẹ Chu Thọ Xương, bà Lựu phải phiêu bạc theo thời gian, qua
nhiều biến cố tại địa đầu giới tuyến „Cầu Hiền Lương“ - Mùa Hè Đỏ Lửa
1972, bà Lựu chạy vào sinh sống ở Gò Nổi, Quảng Nam, trong khi Chơn Hà
sống kín cổng cao tường, sang giàu nhung lụa với cha, với „Me“ quyền
quý nghiêm khắc, cô xuất thân tại trường Đồng Khánh, Huế, có chồng sĩ
quan trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Trước khi lâm chung, ba của
Chơn Hà trăn trối:
„Con vừa có „Me“ thương yêu nuôi dạy, lại còn có „Mẹ“ là thân nhân với
ông Xã Bị Trường Xuân!“. Do đó mà trước khi theo chồng định cư tại Hoa
Kỳ theo diện H.O, Chơn Hà may mắn tìm được mẫu thân sau 50 năm lưu
lạc. Giờ vợ chồng Chơn Hà bảo lãnh bà Lưu sang du lịch tại Denver,
Colorado, đoàn tụ vui vầy.
* Cũng trong chuyện 24 người con hiếu thảo có Hán Lục Tích
6 tuổi, người Giang Nam, đời Tam Quốc, theo cha yết kiến Viên Thuật
tại Cửu Giang, thấy Lục Tích xinh đẹp ngoan hiền, Viên Thuật xoa đầu
ngợi khen, cho vào bàn dự tiệc với cha và các khách quý. Sau bữa tiệc có
trái cây ngon, quít đỏ. Lục Tích giấu vài trái trong tay áo mang về
dâng mẹ. Lúc theo cha cáo từ Viên Thuật. Lục Tích
sơ ý để quít rơi xuống đất, chủ nhà cười nói xuề xòa: „Tân khách cũng
theo thói quen của trẻ, mang quà về nhà nhỉ?“ (Sao khách hiền mang
thói trẻ thơ?). Lục Tích thưa rằng: „Mẹ tôi ở nhà rất thích quít, món
quít Ngài đãi khách vừa đẹp lại vừa ngon, tôi nghĩ mang quà này về biếu
mẹ tôi, xem như cả nhà chúng tôi đều thọ ân của tướng quân đó“. Viên
Thuật hết ca ngợi bé thông minh, hiếu hạnh nên khen thưởng bội phần.
* Hiện giờ chúng tôi cũng chứng kiến cháu Bảo Minh
mới hơn 3 tuổi rưỡi, được ba cháu bảo lấy nước lọc và cái bánh ngọt
cho daddy dùng nào? Bảo Minh mở tủ lạnh xách chai nước lọc và ly kem
mang ra, ba cháu bảo lạnh không ăn được, cháu chau mày nhăn mặt khóng
nhõng nhẽo thấy thương, ba cháu bế con hôn bù lại rồi ăn kem. Bảo Minh
vui cười thỏa mãn. Tình cha con thể hiện rõ ràng qua cháu Bảo Minh còn măng sữa.
* Sách có ghi người dâu họ Trần ở Trần Châu
đời Hán rất trinh thục, hiền hiếu. Gặp thời loạn lạc chồng nàng phải đi
lính thú, trước lúc chia tay chàng rơi lệ nhỏ to với vợ rằng: „Chúng
ta vì thời cuộc phải xa nhau, sa trường mờ mịt sống chết khó lường.
Tôi ra đi mẹ già nhờ em phụng dưỡng thì công ơn xin mãi mãi nhớ ghi“.
Vợ khóc mà thưa rằng: „Dâu cũng như con, chàng ra đi thiếp xin giữ
niềm chung thủy, thì thở mẹ chồng cũng là phận sự“. Chàng ra đi, mẹ
chồng nàng dâu thân thương trìu mến, bỗng đâu tin dữ đưa về, mẹ con
nhìn nhau buồn tủi! Mấy năm sau thấy cô dâu lẻ bóng, nhà vắng trẻ thơ,
mẹ chồng khuyên nên tái giá, nàng rơi lệ xin giữ lời hứa khi chia
tay, để bạn tình được ngậm cuời nơi chín suối!
* Trong Chinh Phụ Ngâm Khúc cũng có ghi:
„Chàng thì đi cõi xa mưa gió,
Thiếp thì về phòng cũ chiếu chăn.
Đoái trông theo đã cách ngăn,
Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh“
Và nhiệm vụ của người chinh phụ đối với gia đình:
„Lòng lão thân buồn khi tựa cửa,
Miệng hài nhi nhớ bữa mớm cơm.
Ngọt bùi thiếp đỡ hiếu nam,
Dạy con đèn sách, thiếp làm phụ thân“.
Ôi
tình mẫu tử, nghĩa phu thê, đạo lý con người tuyệt đẹp, vượt qua tâm
sinh lý và thông lệ thế gian, đáng thán phục và vinh danh.
Sau
khi tìm hiểu ý nghĩa về Giai Tiết Vu Lan và đi sâu vào hiếu tâm con
người qua không gian và thời gian, chúng tôi muốn nói lên bổn phận
thiêng liêng của tiền nhân đối với đàn hậu bối xuất xứ nơi nhiều sách
báo trong và ngoài nước, hay những chuyện viết về loài vật nuôi con rất
lý thú, nhưng bài viết khá dài nên xin dừng lại, bởi lẽ thiên chức
đấng sinh thành đã được đề cao phần nào trong bài viết, vả lại công
đức của ông bà cha mẹ đối với con cháu thật xa vời như trời cao lồng
lộng, thăm thẳm như đất sâu nghìn trùng do đó chúng tôi xin viết lại
đôi câu đ i thờ cha mẹ bằng Hán văn và
phỏng dịch ra Việt ngữ, cống hiến chư độc giả, đồng hương tham khảo và
chiêm nghiệm nhân mùa Bông Hồng Cài Áo:
Phụ Đức Sanh Thành, San Nhạc Trọng
Mẫu Ân Cúc Dục, Hải Hà Thâm.
Với đại ý:
Công Cha Gầy Dựng Tợ Non Cao,
Ơn Mẹ Dạy Nuôi Như Biển Cả.
(Nguồn Internet)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét