Lời Ngỏ
Bài này do ông HÀ BÂN biên soạn. Cô HÀ THỊ HẢI VÂN gửi đến.
Chúng tôi đưa lên đây với mục đích tham khảo, để quý vị cao minh trong Tộc được tường lãm, và con cháu gần xa được tỏ tường.
Chúng tôi mong chư vị cao minh trong Tộc xác định tính chính xác của bài viết để con cháu trong Tộc HÀ - Quảng Nam biết được rõ ràng nguồn gốc của ông bà tổ tiên.
Xin quý vị nhấn vào đây để tải về, dung lượng 1.3 MB.
Chúng tôi chân thành cám ơn cô HÀ THỊ HẢI VÂN đã gửi đến bài này,
Chúng tôi chân thành cám ơn và trân trọng công sức của ông HÀ BÂN là người đã bỏ công biên soạn bài viết này để con cháu đời sau biết được nguồn gốc tổ tiên.
------------------------
CHIM CÓ TỔ
NGƯỜI CÓ TÔNG
BẢN TÓM TẮT
LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG
TỘC HÀ - PHƯỚC
*****
UỐNG NƯỚC NHỚ NGUỒN
ĂN QUẢ NHỚ NGƯỜI TRỒNG CÂY
***
PHẦN I
Bối cảnh tình hình đất nước và sự có mặt tộc Hà - Phước
trên đất Quảng Nam - Đà Nẵng ngày nay
*****
Theo thông sử Việt Nam - Từ trước thế kỷ 3 trước
Công nguyên đến thế kỷ thứ 14. Miền đất từ đèo Ngang
( Quảng bình ) đến Qui Nhơn (tỉnh Bình Định ) thường
xảy ra tranh chấp giữa hai Nhà nước phong kiến Việt
Nam - Champa.Trong thời kỳ nói trên, biên giới giữa hai nước thường có sự thay đổi. Có lúc ở tại đèo Ngang, có lúc tại đèo Hải Vân, có lúc ở sông Vệ ( Quảng Ngãi), có lúc tại đèo Cù Mông (Bình định – Phú Yên).
Vào cuối đời Trần , triều đình ruỗng nát. Vua nước Champa là Chế Bồng Nga lợi dụng sự suy yếu của nhà Trần kéo quân xâm chiếm các vùng đất phía Nam nước Việt Nam (Hà Tỉnh - Nghệ An - Thanh Hóa) hai lần đánh phá kinh đô Thăng Long (Hà Nội).
Năm 1400 Hồ Quý Ly một tướng của triều Trần có nhiều thế lực đã phế truất vua Trần lập nên triều Hồ.
Hồ Quý Ly lên làm vua được một năm, nhường ngôi cho con, thân chinh cầm quân 3 lần đánh phá nước Champa. Chiếm được đất Chiêm Động và Cổ Lũy Động lập nên lộ Thăng Hoa (gồm Quảng Nam và một phần Quảng Ngãi ngày nay).
Tháng 11 năm 1406, giặc Minh bên Trung Quốc đem 80 vạn quân xâm lược Việt Nam.
Năm 1417 Hồ Quý Ly, thân thuộc và nhiều tướng tá bị giặc Minh bắt. Quân Minh xâm lược đã đè bẹp cuộc kháng chiến của nhà Hồ nhưng không đè bẹp được tinh thần bất khuất của nhân dân Việt Nam.
Lúc bấy giờ, ông Đặng Tất (một tướng của nhà Trần , sau khi nhà Trần bị nhà Hồ cướp ngôi thì ông làm việc cho triều nhà Hồ) còn trấn giữ lộ Thăng Hoa cùng nhân dân nỗi dậy phối hợp với hai cuộc khởi nghĩa của tôn thất nhà Trần chống giặc Minh và lập lại ngôi vua cho nhà Trần. Hai cuộc khởi nghĩa do tôn thất nhà Trần lãnh đạo đến giữa năm 1408 đã kiểm soát dược một vùng dất khá rộng từ Thanh Hóa đến Tân Bình ( Quảng Bình - Quảng Trị).
Đến năm 1409, nội bộ những người cầm đầu phong trào khởi nghĩa chia rẽ nghiêm trọng. Các tướng trụ cột như Nguyễn Cảnh Chân, Đặng Tất bị giết hại. Đến năm 1414 phong trào khởi nghĩa hậu Trần bị tan rã.
Năm 1418 Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn (Thanh Hóa). Đến năm 1424 tướng Trần Nguyên Hãn cùng tướng Lê Nô đánh chiếm Tân Bình ( Quảng Bình- Quảng Trị ) mở dần vào đất Thuận Hóa chuẩn bị cho việc giành lại lộ Thăng Hoa ( Quảng Nam – Đà Nẳng ) do nhà Hồ lập nên, và tiếp tục mở rộng bờ cỏi xuống phía Nam của triều Hậu Lê.
Các năm 1446 đến 1471 triều Hậu Lê Việt Nam hai lần đánh Champa lập ra đạo Quảng Nam từ đèo Hải Vân đến đèo Cù Mông ( giữa Bình Định – Phú Yên ).
Ba ông : Hà Phước Hồ _ ( cha )
Hà Phước Hài _ ( con )
Hà Phước Viễn _ ( cháu nội )
Đều là quan của triều Hậu Lê cùng với các vị Tộc họ bạn ở bốn tỉnh Cao Bằng, Thanh Hóa, Hải Dương, Hà Tỉnh đã vào trấn Nam Dinh (Quảng Nam) vừa chiến đấu, đấu tranh chính trị vừa lao động sản xuất , xẻ núi đào sông khai hoang lập xã , xây dựng tinh đầu ở phía Nam nước Việt Nam, mở rộng việc di dân ở phía Bắc vào phía Nam của nước Việt lúc bấy giờ. Có thể tộc Hà Phước có mặt tại đất Quảng Nam - Đà Nẵng từ lúc ấy.
Từ đó đến nay khoảng 540 năm .
PHẦN II
Cội nguồn truyền thống tộc Hà phước
***
A- Cội nguồn : Nguồn gốc tộc Hà Phước ở tại Miền Bắc Việt Nam. Dòng giống Lạc Hồng Âu Việt quê hương . Theo phổ hệ tộc Hà Phước ông Thỉ tổ đời thứ nhất đến đời thứ chín ở tại tỉnh Cao Bằng.
Đời thứ mười , ông Hà Phước Hồ và vợ là bà Thị Quý Linh vào ở tại xã Đằng Vương, huyện Trà Thủy, tỉnh Thanh Hóa có công góp phần xây dựng phát triển tỉnh Thanh Hóa.
B- Góp công cùng quý tiền nhân các tộc bạn mở rộng bờ cỏi phía Nam nước Đại Việt :
Những người theo lệnh vua đi đầu mở rộng vùng đất phía Nam nước Đại Việt – xây dựng tỉnh đầu ở Miền Nam nước Việt Nam ( theo Bắc địa tấu từ ngày 25 tháng 5 năm thứ 5 Lê Thái Tổ ) :
- Ông Phan Thanh Hà – Tả đô thống trấn phủ – Đô thân hầu – Đô trứ công và các con cháu ở tỉnh Cao Bằng.
- Ông Hà Phước Hồ- Hữu đô thống trấn phủ- Đô thân hầu. Con Hà Phước Hài quan thượng tướng quân Bộ Nội Vụ – Phó chỉ huy đốc sứ. Cháu nội Hà Phước Viễn quan tả thống trấn phủ – Thân hầu – Thị chỉ huy sứ thượng tướng quân – Công thần khai quốc ở tỉnh Thanh Hóa.
- Ông Trần Công Quân ở tỉnh Hà Tỉnh.
- Ông Nguyễn Văn Chánh và các con cháu ở tỉnh Hà Tỉnh.
- Ông Thân Văn Thống và các con cháu ở tinh Hà Tinh.
- Ông Huỳnh Tiến Công và các con ở tỉnh Cao Bằng.
- Ông Ngô Hưng Khả và các con ở tỉnh Cao Bằng
- Ông Đỗ Như Hiển, Đoàn Thế Thân, Đinh Hựu Trân, Trịnh Hồ Xuyên, Mai Quý Phủ và các con cháu ở tỉnh Hải Dương.
- Ông Huỳnh Vĩnh Nghiêm và các con cháu ở tỉnh Thanh Hóa.
- Ông Đề Thắng Diệu, Hồ Đức Cu, Hà Ngọc Khánh, Nguyễn Đình Hà, Mạc Văn Xảo, Lê Thượng Nhứt và các con cháu ở tỉnh Cao Bằng.
- Đình phía Đông cận Trấn
- Đình phía Tây cận Thị
- Đình phía Nam cận Sơn (núi)
- Đình phía Bắc cận Biển
C. Quá trình lịch sử truyền thống tộc Hà Phước từ ngày vào trấn Nam Dinh đến ngày nay.
I. Các thế hệ :
Nếu tính từ ông Thỉ tổ tộc Hà Phước ở tại tỉnh Cao Bằng đến đời thấp nhất hiện nay khoảng 27 - 28 đời.
Nếu tính từ đời ông Hà Phước Hồ vào trấn Nam Dinh đến đời thấp nhất hiện nay kkhoảng 18- 19 đời.
Lúc đầu sinh cơ lập nghiệp tại xã Châu Minh, nhưng về sau có nhiều người đi làm ăn cư trú ở nhiều địa phương khác. Một số có địa chỉ, nhiều người đến nay chưa được biết.
+ Đời thứ 2 : Con cả của ông Hà Phước Hồ là ông Hà Phước Thanh vào ở tại huyện Quế Sơn. Con cháu ông nay ở ba vùng chính là :
- Ông thứ nhất : Hà Phước Công ở thôn Đồng Thành ( tiền hiền làng Đồng Thành ) nay thuộc xã Quế Châu, huyện Quế Sơn.
- Ông thứ hai : Hà Văn Quang tiền hiền làng Thuận An, nay là xã Quế An, huyện Quế Sơn.
- Ông thứ ba : Hà Công Triều tiền hiền làng Trung Lộc nay thuộc xã Quế Lộc , huyện Quế Sơn. Ông Hà Phước Lộc vào ở xã Bình Dương, huyện Thăng Bình.
+ Đời thứ 3 : ????
+ Đời thứ 4 : Các ông Hà Thúc Tại – Hà Thúc Thượng – Hà Thúc Hình đi ở nơi khác, chưa xác định được địa chỉ.
+ Đời thứ 5 : Ông Hà Phước Chỉ lên ở làng Bình Nhai ( tiền hiền làng Bình Nhai ) nay thuộc xã Điện Thọ . Ông Hà Phước Tú quan trấn phủ vào ở làng Bằng An ( tiền hiền làng Bằng An ) nay thuộc xã Điện An, huyện Điện Bàn.
+ Đời thứ 6 : Ông Hà Phước Lý ( Thành ) lên ở làng La Kham ( tiền hiền làng La Kham ) nay thuộc xã Điện Quang, huyện Điện Bàn. Ông Hà Phước Võ theo chú ông Hà Phước Tú vào ở làng Bằng An.
+ Đời thứ 7 : Ông Hà Phước Định xuống ở làng Phú Chiêm nay thuộc xã Điện Phương, huyện Điện Bàn.
II. Tổ tiên, ông bà tộc Hà Phước có nhiều người có chức vụ, học vị cao trong các triều đình phong kiến :
- Ông Hà Phước Hồ quan Thượng tướng. Chỉ huy hữu thống trấn phủ – Thân hầu phủ đô- Đô tướng phủ- Thân hầu đô tướng công.
- Ông Hà Phước Hài quan Thượng tướng quân Bộ Nội Vụ - Phó chỉ huy đốc sứ.
- Ông Hà Phước Viễn quan Tả thống trấn phủ Đô đô tướng phủ hiệu Đô thân Hầu- Thị chỉ huy sứ- Đô công hầu phủ- Thượng tướng quân công thần khai quốc.
- Ông Hà Phước Đăng quan Tả thống trấn phủ Đô đô tướng phủ- Đô thân hầu- Thị chỉ huy sứ- Thượng tướng quân công thần khai quốc.
- Ông Hà Phước Đức quan Điền địa.
- Ông Hà Phước Dương là quan trấn phủ - Chỉ huy sứ - Tiền hiền tướng công - Khâm sai bát quân - Đô đốc phủ chưởng sứ . Được tặng khenThái bảo trấn đô công thành tướng Hà Văn Diệu tôn thần.
- Ông Hà Phước Tú quan trấn phủ tiền hiền nhất long làng Bằng An.
- Ông Hà Phước Chỉ tiền hiền làng Bình Nhai.
- Ông Hà Phước Công tiền hiền làng Đồng Thành , Quế Sơn.
- Ông Hà Văn Quang tiền hiền làng Thuận An , Quế Sơn.
- Ông Hà Công Triều tiền hiền làng Trung Lộc, Quế Sơn.
- Ông Hà Phước Lý tiền hiền làng La Kham, Điện Quang.
- Bà tổ cô Hà Thị Phiên ( tức Sắt ) hiển thần.
- Ông Hà Phước Diều tướng thần.
- Ông Hà Phước Cũ lãnh binh được phong Hà đại nhân thần vị.
- Ông Hà Phước Tự lãnh binh chiến đấu mất tích tại Hà Nội.
- Ông Hà Phước Trang cải tộc Hồ tiền hiền làng Đông Bàng, xã Điện Trung, huyện Điện Bàn.
- Ông Hà Phước Khương lưỡng khoa Tú tài.
D. Thỉ tổ tộc Hà Phước tại Miền Nam Việt Nam :
Là Ông : Hà Phước Hồ
Quan Hữu Thống Trấn Phủ - Thượng Tướng Thân Hầu Đô Tướng Công.
Vợ : Bà Thị Quý Linh
Đời thứ 2 :
Ông Hà Phước Thanh con cả ông Hà Phước Hồ vào ở huyện Quế Sơn.
Ông Hà Phước Lộc con thứ 2 ông Hà Phước Hồ vào ở huyện Thăng Bình.
Các Cao tổ lúc đầu hình thành bốn chi Phước- Đức- Ngọc- Thúc.
Đến đời thứ 5 tộc Hà Phước mới hình thành bốn phái như sau :
- Đứng đầu phái nhất : Ông Hà Phước Lý ở tại La Kham, xã Điện Quang.
- Đứng dầu phái nhì : Ông Hà Phước Lai ở xứ đất Châu Bông, thôn Ngọc Tứ, xã Điện An.
- Đứng đầu phái ba : Ông Hà Phước Liễn ở xứ đất Minh Đương , thôn Ngọc Tứ , xã Điện An.
- Đứng đầu phái bốn : Ông Hà Phước Tú ở tại thôn Bằng An, xã Điện An.
Làm dâu tộc Hà Phước từ đời thứ 10 về trước gồm các bà ở các họ Trang, họ Bì, họ Ngô, họ Châu, họ Đoàn, họ Nguyễn, họ Lê, họ Phạm, họ Đặng, họ Đỗ, họ Khúc, họ Trịnh, họ Trà, họ Trầm, họ Cao, họ Dương, họ Huỳnh - nhiều nhất là các bà họ Đoàn cùng làng Ngọc Tứ.
Con gái tộc Hà Phước làm dâu các tộc họ : họ Đoàn, họ Hồ, họ Trần, họ Nguyễn, họ Trịnh, họ Phạm, họ Lê, họ Trương, ...v.v.. Nhiều nhất là các bà ở trong làng và các thôn Nhất giáp, Nhị giáp, Tam giáp, Hạ liên, Hạ nông, Đông hồ, Nông sơn, Đông bàn, Giáo ái...v.v.
E. Có công trong kháng chiến chống Pháp , chống Mỹ xâm lược :
Thống kê chưa được đầy đủ, tộc Hà Phước ở trong huyện và ngoài huyện Điện Bàn có nhiều thành tích trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ như sau :
- Được Nhà nước tuyên dương Bà Mẹ Việt Nam anh hùng : 9 bà ( ở Ngọc Tứ 3 bà, ở Bình Dương 6 bà ).
- Có khoảng 100 cán bộ từ cấp huyện đến các cơ quan Trung ương.
- Có khoảng 100 cán bộ quân đội Nhân dân Việt Nam từ cấp úy đến cấp đại tá.
- Có trên 400 hộ gia đình co công với nước.
- Có trên 150 liệt sĩ, thương binh .
- Đuọc Nhà nước khen thưởng trên 200 huân chương các loại và nhiều bằng khen.
- Có 15 người có 50- 55 tuổi Đảng.
PHẦN III
Tiếp tục phát huy truyền thống tộc Hà Phước
*****
Chim có tổ
Người có tông
Uống nước nhớ nguồn
Ăn quả nhớ người trồng cây
Đó là đạo lý , lẽ sống làm người.
Cháu con nội ngoại tộc Hà Phước với lòng thành kính biết ơn, khói hương thờ cúng tổ tiên ông bà, đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
Tham gia tái tạo nhà thờ, chăm lo phần mộ tổ tiên ông bà ngày càng khang trang đẹp đẽ.
Cháu con nội ngoại thương yêu đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống, trong khó khăn hoạn nạn. Thăm viếng động viên khi ốm đau. Chia xẽ đau thương, phúng điếu giúp đỡ lễ tang khi có người quá cố.
Gia đình hòa thuận, ông bà cha mẹ mẫu mực, con cái hiếu thảo chăm học chăm làm. Dầu còn khó khăn cũng cho cháu con học chữ, học nghề đến nơi đến chốn để lập thân lập nghiệp kế tục sự nghiệp ông cha.
Đoàn kết với nhân dân chung sức chung lòng xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư. Phát huy nội lực, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, làm dịch vụ, vận dụng khoa học kỷ thuật để làm giàu cho mình và cho đất nước, để sớm đạt được mục tiêu “ Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng , văn minh”.
Làm tốt những điều trên đây là tiếp nối truyền thống anh hùng
của quê hương đất nước và tộc Hà Phước chúng ta.
( Tài liệu này dựa vào phổ hệ tộc Hà Phước ông bà để lại và Bắc địa tấu bằng chữ Nho dịch sang chữ quốc ngữ. Nghiên cứu thêm tài liệu lưu trữ tại Huế, Hà Nội để biên soạn )
--------------------------------------------------------------------------
Người biên soạn : ĐẠI TÁ HÀ BÂN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét