Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy, Ta có thêm ngày nữa để yêu thương...Người mà thích điều lành, phúc tuy chưa đến song họa đã xa; người mà không thích điều lành, họa tuy chưa đến, song phúc đã xa...Người ta lúc nhắm mắt đi thì để cho sâu bọ tha hồ đục vào thân xác, thế mà lúc sống không chịu nhường nhịn nhau một chút là tại làm sao ?...Người tốt mà giàu , thế là trời thưởng; người xằng mà giàu, thế là trời phạt...Mặt trời đứng bóng thì xế, mặt trăng đã tròn thì khuyết, vật gì thịnh lắm thì suy...Gieo suy nghĩ, gặt hành vi. Gieo hành vi, gặt thói quen. Gieo thói quen, gặt tính cách. Gieo tính cách, gặt số phận....

Facebook Haco Chi

Thứ Bảy, 2 tháng 6, 2012

Dừng chân trên bến khi chiều nắng chưa phai ..

 Dừng chân trên bến khi chiều nắng chưa phai .. Từ xa thấp thoáng muôn tà áo tung bay .. Nếp sống vui tươi nối chân nhau đến nơi đây .. Saigon đẹp lắm Saigon ơi, Saigon ơi .. Ngựa xe như nước trên đường vẫn qua mau .. Người xa thăm bến câu chào nói xôn xao.. Phố xá thênh thang đón chân tôi đến chung vui .. Saigon đẹp lắm, Saigon ơi, Saigon ơi ..
Saigon đẹp lắm, Saigon ơi, Saigon ơi! 
Bài nhạc của Y Vân. Tôi đoán ông cảm tác nó khi di cư vào tới thủ đô của miền Nam. Ông viết bài nhạc bằng cảm nghĩ chân thật của một người lần đầu tiên đặt chân tới Saigon hoa lệ. Ông ghi lại vào ký ức vài hình ảnh bắt mắt: một chiều nắng chưa phai với muôn tà áo tung bay, dĩ nhiên là của phái nữ, phố xá thênh thang nhộn nhịp ngựa xe như nước áo quần như nêm. Một nếp sống vui tươi chào đón người di dân mới. Y Vân đã nói giùm cho hằng triệu người di dân khác đến Saigon từ khắp nẻo đường đất nước. Thi sĩ Bàng Bá Lân vừa vào Saigon cũng yêu thích tâm tình và nếp sống của người Saigon và cảnh đẹp miền Nam ngay qua nhiều bài thơ của ông, trong đó có những câu như: Yêu xe thổ mộ xôn xao, Trên đường khúc khuỷu đi vào miền quê; hoặc: Tôi yêu nắng lóa châu thành, Trận mưa ngắn ngủi, gió lành hiu hiu. Thật vậy, Saigon chợt nắng chợt mưa, phố phường lúc bấy giờ nhộn nhịp với tiếng vó ngựa lóc cóc trên mặt đường nhựa của những chuyến xe thổ mộ lót chiếu chạy các tuyến lộ trình Saigon ra khắp các vùng ngoại ô. Tôi cũng là dân di cư trong khoảng thời điểm đó. Người di cư đến từ miền Bắc, miền Trung, và họ cũng đến từ đồng bằng sông Cửu long như câu hát Anh từ đồng quê đến; Tôi từ miền cát lên .
Saigon đẹp lắm! Đúng hay sai? Đẹp hay xấu là tùy theo quan niệm riêng của mỗi người, một câu nghe hoài. Hình ảnh đứa con bao giờ cũng đẹp trong lòng một người mẹ, một câu khác nữa. Nhưng đối với đa số thi nhạc sĩ đã từng gắn bó với Saigon, họ ưa thích xem Saigon như người tình hơn, vì chỉ có yêu người tình mới đê mê,thắm thiết, mãnh liệt, nồng nàn, da diết, lâu dài, suốt cả cuộc đời. Họ thích gọi Saigon bằng một tiếng “em” rung cảm.
Tôi chết nhát, không dám gọi Saigon bằng em. Tôi sợ các vong hồn tiền nhân Saigon vặn cổ. Họ là những nhà tiên phong khai phá từ xứ Quảng miền Trung gồm các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức (Thừa Thiên), Quảng Nam, Quảng Ngãi vào đây lập nghiệp dưới thời các chúa Nguyễn từ đầu thế kỷ thứ mười tám; hoặc là những thuyền nhân người Minh hương (vì thế mới bị gọi là Ba Tàu) đến từ hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Hoa (cũng lại Quảng nữa!). Họ là những Ông Lãnh, Bà Chiểu, Thị Nghè, Đỗ Hữu Phương, Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Trịnh Hoài Đức, Hui Bòn Hỏa,Nguyễn An Ninh, Lê Quang Định, Võ Tánh, Trương Tấn Bửu, Võ Di Nguy, Cha Cả Bá-Đa-Lộc, v.v.
Vong hồn tiền nhân Saigon linh thiêng nhứt là Lê văn Duyệt. Nếu ông không linh thiêng thì tại sao người dân Saigon xây lăng mộ ông lớn nhất, tôn thờ ông như một vị thần và hằng năm cúng lễ ông đông nhất để khấn nguyện xin ông phù hộ. Nếu bạn dám vỗ ngực tự hào xưng là dân Saigon thứ thiệt thì ít nhứt một lần bạn phải đến viếng thăm lăng Tả Quân Lê Văn Duyệt vào một ngày đầu năm để hái lộc, để bị khói nhang xông cay chảy nước mắt trong lúc chờ người yêu làm một quẻ bói xăm. “Lăng Ông”, “Vườn Ông Thượng”, không cần phải kể tên, người ta cũng biết “ông” là ai. Cái oai, cái vía của ông vẫn còn tồn tại mãi mãi trong lòng người dân Saigon và đã trở thành bất tử, mặc dầu ông mất từ lâu lắm, năm 1832.
Tuy Saigon ngày nay bị đổi tên, nhưng đối với người dân Saigon, ông Lê Văn Duyệt. Là Tổng trấn thành Gia Định dưới triều vua Minh Mạng, dưới trướng còn có đứa con nuôi Lê văn Khôi gốc người Nùng dũng mãnh, còn có ông Hoành, ông Trấm hầu cận, Lê văn Duyệt tỏ ra là một nhà hành chánh giỏi tài tổ chức và quản trị, có đủ uy danh và đức độ, ai ai cũng nể vì, kể cả mấy ông vua Cao-Miên thuở đó. Với cây gươm Thượng-phương-kiếm của vua trao cho quyền tiền trảm hậu tấu, ông thẳng tay chém đầu kẻ tội, dù người đó là Huỳnh Công Lý, cha vợ của vua, ông cũng không tha. Ông có công lớn trong việc mở mang bờ cõi, xây dựng và phát triển Saigon. Trong khi triều đình Huế khắc khe áp dụng chính sách bài ngoại và bế môn tỏa cảng, ông đón nhận di dân nước ngoài, khuyến khích thương mãi và giao dịch, một mặt duy trì an ninh trật tự xã hội. Ông đáng được gọi là Người Sài Gòn Số Một. Saigon thu hút dân tứ xứ đến sinh cơ lập nghiệp kể từ đó và tiếp tục phát triển.
Nhưng danh hiệu Hòn Ngọc Viễn Đông – Le Perle de l’Extrême Orient, The Pearl of the Far East – mà Saigon có được vào đầu bán thế kỷ hai mươi phải nhìn nhận là do công của người Pháp. Sau khi toàn cõi miền Nam đã trở thành thuộc địa của Pháp vào năm 1859, người Pháp muốn đặt nền móng hành chánh lâu dài nên ra sức canh tân thành phố Saigon, thiết kế đô thị theo kiểu mẫu kiến trúc Âu châu trong suốt 80 năm cho đến trước khi Đệ Nhị Thế Chiến. Saigon thu hút đầu tư của giới kinh doanh kỹ nghệ Pháp cùng với sự đóng góp của kiều dân gốc Hoa, Ấn, Tây Ban Nha, Ý Đại Lợi, Ái Nhĩ Lan, Mã Lai, và nhiều nước khác nữa. Sau khi thực dân Pháp hoàn toàn rút chân ra khỏi Việt Nam vào năm 1954, nhiều công ty tư nhân của Pháp vẫn còn tiếp tục làm ăn ở Saigon: Denis Frères, Mitchelin, B.G.I., Mélia, Bastos, v.v.
Tuy cách xa bờ biển gần một trăm cây số nhưng Saigon được xem như là một hải cảng có nhiều ưu điểm chiến lược và lý tưởng vì mọi tàu bè viễn dương thời đó đều vào được. Saigon cũng mang đầy đủ đặc tính tiêu biểu của những thành phố cảng khác trên thế giới như Marseille, New Orleans, Montreal, Thượng Hải; là nơi dân giang hồ tứ chiến dừng chân. Họ thuộc đủ mọi thành phần, từ những bậc vương tôn công tử lắm bạc tiền cho đến những tay anh chị khét tiếng thuộc xã hội đen, những con buôn thủ đoạn nắm bắt thời cơ làm giàu, ăn chơi hưởng thụ, thích ứng và hài lòng với đời sống mới, xin chọn Saigon làm quê hương và gởi nắm xương tàn nơi đó.
Hai mươi tám năm qua rồi, tôi chưa nhìn thấy lại Saigon; hai mươi tám năm cách trở giữa tôi với thành phố mà nơi đó, tôi đã trãi qua lứa tuổi hoa niên thơ mộng và đáng nhớ nhất của cuộc đời mình. Hai mươi tám năm, một nửa phần đời đã qua, dài hơn phần đời còn lại. Hai mươi tám năm sống trên xứ lạ, tâm tư thật nhiều nhớ nhung, vọng tưởng, thật nhiều hồi ức và hoài niệm về thành phố thân yêu đó. Hai mươi tám năm dõi mắt hướng về, lắng tai ngóng đợi, cố thu thập mọi diễn tiến xảy ra nơi vùng đất cũ, nơi đã in dấu biết bao kỷ niệm vui buồn.
Tôi bước chân đến thành đô Saigon lần đầu tiên vào mùa bãi trường và nghỉ hè năm 1950, khi quái kiệt Trần Văn Trạch hay hát Con chim hòa bình đang đau nặng, Ngày và đêm càng thêm lo lắng. Thằng bé nhà quê sáu tuổi như bị thôi miên trước Saigon hoa lệ, rực rỡ ánh đèn, dập dìu xe cộ. như đi lạc vào trong một thế giới mới lạ của chuyện thần tiên. Phố xá thênh thang đón chân tôi đến chung vui. Saigon đẹp lắm, Saigon ơi, Saigon ơi! Suốt mấy tháng cuối hè năm ấy, tôi mãi mê tiếp nhận những kinh nghiệm mới mẻ, đẹp đẽ và hấp dẫn đầy những hình ảnh và âm thanh quyến rũ, quyến rũ đến nỗi tôi quên cả nhớ nhà, nhớ bà ngoại, nhớ mẹ và đứa em nhỏ. Quyến rũ đến nỗi ba tháng trôi qua một cái vèo, và đã đến lúc tôi phải từ giã Saigon lần đầu tiên trong bịn rịn luyến tiếc. Không luyến tiếc làm sao được khi tôi đã được chiêu đãi như một hoàng tử bé trong suốt quãng thời gian đó. Tôi chỉ có vui chơi, dạo xem các thắng cảnh của thành phố, ăn ngon mặc đẹp, và tham dự vào những thú tiêu khiển giải trí thời thượng của cả người lớn nữa.
Lúc bấy giờ tôi chưa hiểu lý do tại sao tôi lại được cha tôi cưng chiều như vậy và tôi cũng chẳng cần đi tìm một sự giải thích. Mãi về sau, khi đã trưởng thành thêm, tôi mới chứng ngộ được đầu đuôi sự việc. Tôi xin kể sau đây.
Vì lý do an ninh và kinh tế, cha tôi một mình rời quê Mỹ Tho lên Saigon tìm công ăn việc làm, trong khi mẹ tôi và anh em tôi ở lại quê ngoại. Ông tìm được việc ngay, thư ký kế toán cho Nhà Đèn Chợ Quán, tức nhà máy điện của đô thành. Thỉnh thoảng ông đáp chuyến xe lửa Saigon-Mỹ Tho (dài bảy mươi hai cây số, mất hai tiếng rưỡi đồng hồ) về quê thăm gia đình, mang theo nhiều quà cáp cho tất cả mọi người trong nhà, thường là các loại kẹo bánh Pháp như chocolat Nestlé ổ chim, bánh hộp Bisquit, Lu, bơ Bretel, fromage La Vache Qui Rit con bò cười. Hè năm đó, ông không về mà chỉ nhắn tin gọi tôi lên thăm ông. Ông thu xếp với một người quen làm tài xế xe hàng chở dừa cho tôi quá giang lên Saigon, xong ông đến vựa bán dừa của người quen ở Chợ Cầu Muối đường Kitchener (sau nầy là đường Nguyễn Thái Học) đón tôi về nhà trọ ở khu Nancy (Chợ Quán). Đó là lần đầu tiên tôi đi xe điện chạy tuyến đường Saigon-Chợ Lớn dài sáu cây số và cũng là tuyến đường xe điện độc nhất của thành phố Saigon. Sau khi đã định cư ở xứ cờ lá phong, trong mấy năm cuối của thập niên 1970, tôi đi làm mỗi ngày trên đường Queen St., thành phố Toronto, cũng bằng xe điện streetcar, y như hai mươi tám năm trước đó ở Saigon.
Về đến nhà trọ, cha tôi giới thiệu tôi với một phụ nữ trẻ khoảng độ hai mươi tuổi, bảo tôi gọi là Dì Ngân. Dì Ngân là người thành phố, tuy không đẹp lắm nhưng tánh tình dan dĩ, tự nhiên, tự tin, hoạt bát, vui vẻ. Dì gọi tôi bằng con nghe ngọt xớt, xoa đầu tôi, cặp cổ tôi, bẹo má tôi, xem tôi như một món đồ chơi. Dì chăm sóc tôi chu đáo, mua sắm quần áo, giầy dép mới cho tôi. Dì nấu ăn khéo, làm cơm ngon, mua thức ăn đắt tiền như tôm càng rim, thịt bò xào dưa cải, canh nấm đông cô. Dì Ngân có một người chị làm đào cải lương đoàn hát Hoa Sen của Bảy Cao, cứ vài ba đêm lại dắt tôi di coi cải lương ở rạp hát Nguyễn văn Hảo trên đại lộ Galliéni (Trần Hưng Đạo). Vãng hát, cha tôi và dì Ngân còn dắt tôi đi ăn “xíu dề”, cữ ăn khuya theo thói quen của người Tàu Chợ Lớn, ở “La-Cai” (Lacaze, tức đường Nguyễn Tri Phương), thường là món cháo hoa ăn kèm hột vịt muối hoặc hột vịt bắc thảo ở một quán người Tàu, rồi mới về nhà.
Những ngày cận Tết Trung Thu, tôi được dắt vô Chợ Lớn dạo phố, mua bánh, mua đèn. Cuối tuần, cha và dì dắt tôi đi dạo vườn Bờ-Rô (do chữ Pháp “pelouse”, sân cỏ, theo như sự giải thích của nhà văn Sơn Nam trong quyển bút ký Người Sài Gòn), tức Vườn Tao Đàn, coi người ta chơi boules (học giả Vương Hồng Sển trong tác phẩm Saigon Năm Xưa gọi môn chơi thể thao nầy là “quần lăn”), một trò chơi thảy những trái banh bằng sắt cỡ vừa lòng bàn tay. Lúc khác nữa, tôi được dắt đi bát phố Catinat, Charner, Bonard (các đường Tự Do, Nguyễn Huệ, Lê Lợi sau nầy), xem phòng trưng bày xe hơi ô tô có các hiệu Citroen, Peugeot, Traction, xem xi-nê, ăn kem, mua bánh kẹo Pháp ( Thật không ngờ năm mươi năm sau, ngày nay tôi vẫn còn mua fromage hiệu La Vache Qui Rit ăn lai rai). Còn nữa, tôi được dẫn vô khu giải trí Đại Thế Giới ở Chợ Lớn, Kim Chung ở Saigon coi thiên hạ cờ bạc, trường đua Phú Thọ coi đua ngựa và coi thiên hạ đánh cá ngựa, người nào thua cháy túi thì coi như bị ngựa đá. Một tình yêu mến như lời hát câu ca. Để lòng thương nhớ bao ngày vắng nơi xa. Sống mãi trong tôi, bóng hôm nay sẽ không phai. Saigon đẹp lắm, Saigon ơi, Saigon ơi.
Saigon một thời được tặng cho danh xưng Hòn Ngọc Viễn Đông kể cũng không ngoa. Tuy Saigon không đồ sộ bằng những thành phố lớn ở Bắc Mỹ, không cổ kính bằng những thành phố ở Ấu Châu, nhưng Saigon duyên dáng mỹ miều với những con đường rợp bóng cây, những công trường ngã năm, ngã sáu, ngã bảy đầm ấm nhộn nhịp, những dinh thự, phố xá và nhà ốc có nét kiến trúc yêu kiều. Saigon có một nền kinh tế phồn thịnh, nằm sát vựa lúa trù phú miền đồng bằng sông Cửu Long. Bến cảng Saigon có hải xưởng bảo trì và chỉnh trang tàu bè, là cửa ngõ mậu dịch với thế giới, là trạm tiếp vận cho hai nước Cao Miên và Lào. Tuyến đường hỏa xa dự định nối liền Saigon-Nam Vang chỉ mới thực hiện đoạn đầu đến Mỹ Tho đã phải bị đình chỉ khi sự vận chuyển bằng xe hàng dễ khả thi hơn và đường hàng không lần lượt phát triển mạnh mẽ. Tâm tình người Saigon xuề xòa, không quá bon chen đua đòi, có làm có ăn, cầu vừa đủ xài và luôn luôn mở rộng tấm lòng đón nhận dân mới đến.
Sau khi đã trở lại làng quê Long Bình Điền, quận Chợ Gạo để bắt đầu năm học mới, tôi tỉnh bơ nói ra cảm nghĩ thật của mình về cha tôi, về cô tình nhân của ông là dì Ngân, về những ngày vui của tôi ở Saigon. Tôi nào biết điều đó đã làm cho mẹ tôi, ngoại tôi buồn lòng rất nhiều. Mỹ Tho cách Saigon chỉ có 72 cây số, sự giao-thông thuận tiện, có xe lửa, xe đò, xe lô chạy suốt ngày, tuy gần mà xa. Hèn chi tôi hay nghe cha tôi ngâm nga mấy câu thơ: Cúc mọc bờ ao kêu bằng cúc thủy, Chợ Sài Gòn xa, chợ Mỹ cũng xa. Viết thơ thăm hết nội nhà, Trước thăm phụ mẫu, sau là thăm em. Hoặc: Mười giờ tàu lại Bến Thành, Xúp-lê vội thổi, bộ hành xôn xao. Tôi cũng hay nghe mấy câu hát ru con Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ, Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu. Anh về anh học chữ nhu, Chín trăng em đợi, mười thu em chờ. Học chữ nhu, phải chăng ý nói hiền bớt lại, đừng nóng nảy cộc cằn, đừng mắng chửi em, đừng bạt tai em; hay chữ nhu do “chữ nho” nói trại ra, điều nầy hoàn toàn tôi không được rõ.
Tôi lên Saigon lần thứ nhì để định cư luôn vào cuối năm 1953 cùng với mẹ và em tôi. Tôi định khoe với đứa em trai chiếc xe điện chạy trên đường rầy, ở trên mui có cái đuôi dài móc dính lên giây điện, mỗi lần xe chạy, cái đuôi xẹt ra ánh sáng nghe lạch tạch. Nhưng xe điện đã bị dẹp mất tiêu! Cha tôi mua một căn nhà trong hẽm 192 đường Đề Thám cho gia đình ở, đồng thời vẫn duy trì “phòng nhì” với dì Ngân trong khu Nancy. Lúc ấy cha tôi bắt đầu làm việc cho ngân hàng Banque Franco-Indochinoise trên đường La Somme, đại-lộ Hàm Nghi; ông có sắm một chiếc xe Mobilette để đi làm mỗi ngày ở Chợ Cũ. Sau đó khá giả hơn nhờ có cao trào chuyển ngân qua Pháp, cha tôi sắm một chiếc xe hơi hiệu Fiat của Ý để đi chơi xa, về quê Mỹ Tho hái mận hồng đào, đi tắm suối Trị An ăn canh chua lá vang, tắm biển Gò Công ăn hột vịt lộn, biển Vũng Tàu, Long Hải, đi Đà Lạt đồi thông, Nha Trang cát trắng, Ban-Mê-Thuột đất đỏ.
Xóm 192 Đề Thám là một xóm lao động, đa số dân cư trong xóm là phu phen, thợ thuyền, bạn hàng buôn bán lẻ. Cha tôi nằm trong thiểu số có ít vốn liếng chữ nghĩa, đi làm mặc áo sơ-mi trắng, ôm cặp-táp, nên được lối xóm kêu bằng thầy Tư, vì mẹ tôi thứ tư. Nhà trong xóm là nhà dãy san sát nhau, trệt, lầu lẫn lộn, có một vài gia đình người Tàu sống hòa thuận với chòm xóm người Việt.
Xóm lao động dĩ nhiên là đông đúc và ồn ào, suốt ngày nghe đủ loại những tiếng rao hàng. Một ông Tàu không rành rẽ tiếng Việt, đầu đội một cái nia lớn, vai đeo khung chân ghế xếp cất tiếng rao:”Bánh bò bánh tiêu bánh bò .Dầu-chá-quải bánh bò .Bánh bò lá dứa nước dừa .Mại dô mại dô .”. Một ông Tàu khác gánh cần-xé đi mua đồ lạc-xon rao:”Ve chai .Ai có xon nhôm nồi đồng hư bể bán hôn .” . Một ông Tàu khác mặc áo có nhiều túi rộng phình, đi tay không rao:”Vàng vụn bạc vụn bán hôn. Răng vàng hư, đồng hồ bể bán hôn”. Có ông gánh nồi nước bốc khói, tiết kiệm lời rao, hoặc ngượng nói tiếng Việt không rành, chỉ lắc một cái trống nhỏ nghe lung tung, người ta cũng biết ngay đó là ông thợ nhuộm. Ông mài dao thì quơ một xâu dài có nhiều miếng sắt móc dính với nhau; khi quơ phát ra tiếng kêu reng rẻng. Hai cha con ông bán mì thì chỉ cần gõ thanh gỗ “cắc cụp”. Vui nhất là ông Tàu bán thuốc trừ gián, chí, rệp:”Thuốc chí trừ chí, thuốc rệp trừ rệp”. Một lần người ta hỏi mua một gói thuốc trừ rệp, ông Tàu lục túi dết kiếm một hồi rồi lấy đưa ra. Người mua thắc mắc, “Sao tui mua thuốc rệp mà ông đưa thuốc chí?”, ông Tàu đáp tỉnh bơ:”Thuốc chí chừ dệp cũng lược mà hầy lớ!”
Người Việt bán hàng rong ít khi di chuyển mà chỉ thích quây quần lại một chỗ nhất định ở đầu hẻm, trước trường học, trước rạp hát, là những nơi có đông người qua lại. Số người đi dạo vào tận xóm trong qua từng nhà có một chị bán chè với tiếng rao trong trẻo lảnh lót Ai ăn chè bột khoai nước dừa đường cát hôn .nghe êm tai vô cùng. Ngoài ra còn có một chị bán sương sa hột lựu, một bà xỏ lỗ tai, một bà cắt lể, một ông vác hơi, một ông đấm bóp và mấy chú nhỏ bán cà-rem cây mang trên vai cái bình thủy nặng nề. Một cây cà-rem béo ngon lúc bấy giờ giá chỉ có năm cắc bạc và một tô hủ tiếu hai đồng. Những người bán dạo nầy dần dần giải nghệ hoặc cải tiến theo thời gian, theo sự biến đổi của luật tuần hoàn và theo sự đào thải của luật cung cầu.
Hằng ngày, tôi đi học ở trường tư thục Tiên Long, đường Cô Bắc cho đến hết lớp Đệ Tứ; sau đó học tiếp các lớp Đệ Tam, Nhị, Nhất trường Hưng Đạo của thầy Nguyễn văn Phú (Cống Quỳnh), trường Trường Sơn của thầy Nguyễn Sỹ Tế (Lê văn Duyệt), trường dạy Anh-ngữ của thầy Trần Việt Anh (Đinh Tiên Hoàng, Đakao). Tôi đi học ở Saigon trong mười một năm liền, rớt tú tài một mấy keo, tú tài hai thêm mấy keo nữa vì ham mê văn nghệ hơn là ham học các môn toán, lý hóa, vạn vật. Sư tổ chuyên trị thi rớt là Trần Tế Xương (1869-1907) thi hương tám lần mà vẫn rớt có phán rằng Mai không tên tớ, tớ đi ngay. Giỗ tết từ đây nhớ lấy ngày. Tội nghiệp ông tú Vị Xuyên sinh bất phùng thời, có bằng tú tài mà không có Trường Võ Bị Thủ Đức để mà kiếm cái lon chuẩn úy le lói chơi, đành sống trong cảnh nghèo, làm thơ chua và mất sớm. Thi rớt, làm đúng theo lời sư phụ, tôi đi ngay thật. Tôi đi ngay vào rạp hát xuất permanent ngồi suốt buổi sau khi không thấy tên mình trong danh sách thí sinh trúng tuyển…Vui chi khi chàng trai hỏng thi, Khóc như cô thiếu nữ lúc bước đi về nhà chồng .Tôi đâu có khóc, mà cũng không thể khóc như cô dâu về nhà chồng. Cô dâu buồn trong chốc lát rồi sẽ được vui nhiều, chớ người trượt vỏ chuối ở trường thi thì …buồn vào hồn không tên, thức giấc nửa đêm, thấy buồn sao là buồn!
Những ngày nghỉ (nhiều lắm!), tôi lội nát quận nhì, quận nhứt, lan lên tới quận ba. Những con đường Hồ văn Ngà, Nguyễn văn Sâm, Lefèvre, Yersin, Calmette của quận nhì, tôi lội bộ qua đó đều đều để bắn me bằng giàn ná thun, để ăn vặt bò viên, bánh ướt tôm khô chả lụa, gỏi đu đủ bò kho, bò bía, phá lấu, mực luộc. Tôi đi coi “xiné” ở các rạp Khải Hoàn, Thanh Bình, Rex, Kinh Đô, Vĩnh Lợi, Lê Lợi, Majestic, Long Phụng, Casino Saigon, Moderne Tân Định. Gần nhà nhất là rạp Đại Quang ngay đầu hẽm 192, Đề Thám. nhưng tôi chê vì rạp nầy chuyên hát phim Tàu, xem mặt cô đào Lý Lệ Hoa mãi củng chán. Xa hơn chút nữa có rạp hát Đại Nam trên đại lộ Trần Hưng Đạo. Rạp nầy xịn lắm, với màn ảnh đại-vĩ-tuyến, ghế nệm và có máy lạnh đàng hoàng. Đường Cô Giang gần Chợ Cầu Muối có rạp Diên Hồng, bên Bến Vân Đồn thuộc quận tư có rạp Nam Tiến tệ hệ quá, nước đái khai rùm, chỉ đi coi một lần là dội ngược, không trở lại lần thứ hai.
Thuở đó tôi mê coi phim chiếu bóng lắm. Phim Pháp chẳng có bao nhiêu, tôi chỉ nhớ phim Khỉ Đột Xin Chào Le Gorille Salue Bien do tài tử Lino Ventura đóng, một số phim khác có hề “mặt ngựa” Fernandel , có kép đẹp Alain Delon, có các đào đẹp Catherine Deneuvre, Claudia Cardinale, Brigitte Bardot, v.v. Đa số là phim Mỹ với các tựa phim bằng chữ Pháp mới tức cười, chẳng hạn như Le Soleil Se Lèves Aussi Mặt Trời Vẫn Mọc, Vallée de la Mort Thung Lũng Tử Thần, L’Auberge au Sixième Bonheur Quán Trọ Lục Phúc, L’Homme au Colt d’Or Dũng Sĩ Súng Bá Vàng, Le Pont de la Rivière Kwai Cầu Sông Kwai, Bonjour la Tristesse Buồn Ơi Ta Chào Mi, Le Jour le Plus Long Ngày Dài Nhất, v.v.
Tôi cũng mê coi cải lương nữa, thành thử ra học dốt là phải!. Rạp Nguyễn văn Hảo ở ngay góc đường Trần Hưng Đạo với Đề Thám, rất gần nhà, tôi đi bộ không đầy mười phút, là rạp tôi coi thường trực. Rạp nầy thiết kế bên trong theo kiểu hí viện Âu Châu, cũng có hai từng balcon hình vòng cung, hai đầu vòng cung có các khu ngồi ngăn riêng cho khách xộp. Hai tuồng cải lương “Đoàn Chim Sắt” và “Mộng Hòa Bình” của đoàn hát Hoa Sen diễn cả tháng, tôi xem không biết là mấy lần. Tôi mê sự mới lạ của kỹ thuật điện ảnh, ánh sáng, âm thanh, cơ giới, mà ông bầu Bảy Cao với đầu óc sáng tạo, tiên phong đem áp dụng vào sân khấu cải lương. Tôi khoái coi ông thợ vẽ affiche bằng bột màu ngồi khòm lưng làm việc ngay một góc trước rạp. Về nhà, tôi cũng bắt chước kẻ ô vuông một tấm hình trong tạp chí rồi cọp-py lại trên một tờ giấy trắng lớn hơn.
Sau rạp Nguyễn văn Hảo là Ngã Tư Quốc Tế góc đường Đề Thám và Bùi Viện, một khu vực thiết thân của giới nghệ sĩ, là nơi gặp gỡ của các ông bầu, soạn giả, họa sĩ vẽ phông, ký giả săn tin, và các tay làm áp-phe văn nghệ.. Gọi đó là Ngã Tư Quốc Tế cũng xứng đáng, vì chỉ trong vòng tròn với đường bán kính vài cây số, có ba rạp hát cải lương và bốn rạp chiếu bóng thường tổ chức đại nhạc hội thi ca vũ nhạc kịch vào dịp cuối tuần hoặc vào những ngày lễ lớn. Đại nhạc hội nào càng có nhiều hề, tôi càng khoái đi xem. La Thoại Tân bô trai giả bộ anh khờ ngây thơ, Túy Hoa xí xọn, Thanh Việt chuyên đóng vai đầy tớ, Thanh Hoài hiền ngoan vô tư, Khả Năng chàng ngốc vai u thịt bắp , Tùng Lâm mỏ chuột ma lanh, Xuân Phát lên mặt dạy đời, Hoàng Mai nổi nóng gây sự, Phi Thoàn õn ẹo như lại cái, Văn Chung cười băm lăm con dê hết xẩy. Nằm lọt trong cái vòng tròn đó là đường Bùi Viện, nổi tiếng là nơi tập trung những quán nhậu thuần túy đặc sản quê hương, và một quán cơm bình dân tự-phục-vụ self-service theo kiểu một cafeteria nằm ngay góc đường của ngã tư. Cuối Đề Thám về hướng Bắc là ngã ba đường Phạm Ngũ Lão, bản doanh của nhiều tòa soạn nhật báo, tuần báo, tạp chí. Phía bên kia đường rầy xe lửa là đường Lê Lai với rạp Thành Chung của đoàn Kim Chung, với nhiều cửa hàng cung cấp nhiều mặt dịch vụ khác nhau. Bến xe đò đi lục tỉnh Nguyễn Cư Trinh, Ga Xe Lửa và Chợ Bến Thành cũng nằm trong vòng tròn đó.
Suýt soát hai mươi năm sống ở Saigon, tôi hay la cà ở cái ngã tư đầy cám dỗ nầy. Ban đầu, tôi mê mẩn những giọng hát lời ca ngọt ngào như mía hấp hoặc tài diễn xuất lôi cuốn như nam châm của Út Bạch Lan, Thành Được, Thành Công, Kim Cương, Ngọc Giàu, Văn Chung, Ngọc Nuôi, Việt Hùng, Bích Thuận, Bích Sơn, Bạch Tuyết, Hùng Cường . Dần dần, tôi mơ mộng một thần tượng Thanh Nga tài sắc vẹn toàn. Tôi đã từng lén ra hậu trường để coi Thanh Nga sắm tuồng, thoa son dồi phấn. Đám tang của nghệ sĩ Năm Nghĩa, thân phụ của Thanh Nga, diễn ra trên đại lộ Trần Hưng Đạo, tổ chức lớn lắm, người đi rất đông, tôi cũng có xem. Dĩ nhiên sau nầy khi đã vào lính và đã lập gia đình, tôi chỉ còn mơ mộng đến Ngã Tư Quốc Tế qua hình ảnh mấy món nhậu gà xối mỡ, cua rang muối, bò lúc lắc, lươn um xả, đùi ếch chiên bơ, tôm gỏi ngó sen, đầu cá hấp, và mấy chai bia 33, bia con cọp mà thôi.
Đại lộ Trần Hưng Đạo là một trong những con đường huyết mạch, là trục giao thông chính nối liền Saigon với Chợ Lớn. Lề đường hai bên rất rộng, được che mát bởi hai hàng cây cao vút, thân to lớn, thẳng đứng, nhánh xòe mang nhiều trái có hình thù giống dái ngựa(?) nên cây bị đặt luôn cho cái tên khó nghe đó. Nghe vậy mà không phải vậy, vì theo tôi nhận thấy, thành phần nào của loại cây nầy cũng dễ thương hết. Tôi đã từng say sưa ngửa mặt dang tay hứng đón những cơn mưa hoa vàng đổ xuống trong khi gió lay lá reo xào xạc. Đến mùa trái khô, những trái hình quả lê hay quả bơ màu nâu láng năm cánh nở bung ra rớt xuống lề đường, tức thì cả đống hột có cánh đơn đồng loạt bay, vừa bay vừa quay mòng trông giống như một màn đổ bộ của đoàn quân nhảy dù lơ lửng trên không. Nhà phố hai bên rất khang trang, sầm uất, có nhiều cơ sở thương mãi, trường học công lập, hí viện, nhà thương, cơ quan chính phủ, giáo đường. Nhà thờ Tin Lành Saigon (nằm ngay góc Trần Hưng Đạo/Đề Thám) cũng là nơi tôi hay la cà vì ham vui, nhất là vào dịp lễ Giáng Sinh, được nghe ban hợp ca hát liên tiếp nhiều bài êm ả lỗ tai vô cùng (Đêm đông lạnh lẽo, Chúa sinh ra đời, Chúa sinh ra đời nằm trong hang đá, trong máng lừa.). Tôi từng vào bên trong thánh đường ngồi chăm chú nghe rao giảng đạo của Đức Chúa Trời, được phát cho mấy tập bài giảng có nhiều hình vẽ rất đẹp.
Lễ Quốc Khánh 26/10 hằng năm dưới thời Đệ Nhứt Cộng Hòa nhiều lần được tổ chức trên con đường nầy với khán đài danh dự được dựng lên trước trường nam tiểu họcTôn Thọ Tường. Sân trường Tôn Thọ Tường rộng lắm, được dùng làm nơi tổ chức hội chợ triển lãm hàng nội hóa mấy lần, có sân khấu và chương trình ca nhạc sống giúp vui. Tôi đã nghe ca sĩ Việt Ần hát bài Hận Đồ Bàn ở đấy. Sân trường nữ tiểu học Phan văn Trị có trồng mấy cây chuối, cả bầy dế cơm làm ổ dưới gốc, tôi bắt mấy chục con cho ông hàng xóm dồn đậu phọng chiên nhậu chơi. Một lần khác, cà cuống bay về ngã tư nầy rất nhiều lúc ban đêm quần theo ánh đèn đường sáng quắc và đâm đầu rớt xuống dưới chân cột điện, tôi lượm đem về cho mẹ tôi nướng để giầm vô nước mắm pha lấy mùi thơm. Trường Phan Văn Trị vào ban đêm biến thành Trường Bách Khoa Bình Dân Học Vụ dành cho học sinh người lớn trau giồi kiến thức văn hóa cho nên nhộn nhịp với đèn đuốc sáng trưng vui lắm.
Cạnh rạp hát Đại Nam có lò bánh mì Vạn Kim của người Tàu hầu như mở cửa suốt ngày đêm. Bánh mì ổ kiểu Pháp và kiểu Ý xuất phát từ lò nầy ra nổi tiếng ngon nhứt Saigon. Tôi hay ra lò bánh mì nầy mua vài ổ nóng hổi mới ra lò thơm phức đem về ăn với vịt quay, xá xíu mà cha tôi đã mua ở Chợ Cũ. Vừa bước vào cửa và đứng ở quầy đặt hàng và trả tiền, tôi có thể nhìn thấy sau vách ngăn thấp có gắn kính trong suốt bên trên, những người thợ toàn là thanh niên trẻ đang nhanh nhẹn làm việc. Họ làm việc hầu như suốt ngày đêm vì bất cứ giờ nào tôi lội bộ ngang qua đó cũng đều thấy. Họ mặc áo thun trắng, bụng quấn tạp-dề trắng, đầu đội nón nồi trắng, cả nước da của họ nữa cũng trắng luôn vì dính đầy bột mì và vì luôn luôn làm việc không có ánh nắng mặt trời. Họ làm việc trong im lặng, hai tay cử động lẹ làng thoăn thoắt nhồi nhồi nắn nắn mấy cục bột rồi dùng một cây que thật dài bằng gỗ giống y như mái chèo để đưa bột vào lò gạch, bên dưới lửa than cháy đỏ rực.
Xin mời bạn đọc một văn sau đây nói về con đường Trần Hưng Đạo trích trong quyển tùy bút Thành Phố Trong Hồi Tưởng của Trần Hồng Châu, bút hiệu của giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch, người từng giữ chức Khoa trưởng Đại học Văn khoa Saigon trước 1975:
Tôi vốn có duyên với đường Trần Hưng Đạo. Đổi nhà mấy phen vẫn quanh quẩn trong lưu vực của dòng Trường giang thành phố đó. Tôi trầm ngâm nhìn ngoài bản đồ Saigon và trong tâm tư để xác định những điểm “cao”, những địa linh rải rác khắp dọc “sông”. Đường Đồng Khánh hay Trần Hưng Đạo nối dài, vùng các khách sạn Đồng Khánh và Thiên Hồng-Arc en Ciel-nhất định phải là hẽm Vu-sơn, Vu-giáp trong Tình sử và Đường thi. Lòng đường bỗng dưng co hẹp lại, nhà cao tầng san sát, rập rình lớp lớp ngựa xe, từng hồi chao đảo, từng hồi nhấp nhô như sóng nước Trường giang bị kẹp chặt giữa hai sườn núi đá chênh vênh. Luôn luôn âm u sương khói phủ, khói phù dung và phạn điếm giống như những nét mịt mùng, đậm nhạt, rất thủy mặc của vùng cao-nguyên Tứ-xuyên, đầy lam sơn chướng khí và màu sắc u huyền. Luôn luôn chìm trong mênh mông màn khói thuốc lá thơm và hoang tưởng mùi phấn hương của nhạc chiều luân vũ, gần bên những Tân-Đào-Viên, những Bá-Lạc-Đài, những Đại-Thế-Giới của một thuở nào. Đây là nơi đã từng đốt cháy hơn một cuộc đời, đất hứa của những cảm giác lạ, những giấc mơ tình ái có nhiều mây và mưa trong vương quốc của nữ thần huyền thoại. Đây là nơi, đúng như trong những diễm tình tiểu thuyết cổ điển, ta có thể lên ngôi hoàng đế một đêm, để sớm mai lại lủi thủi đi bên lề đường, cô đơn, như một Mại-du-lang đa tình, hay một thư-sinh chưa trọn giấc kê vàng sau buổi lạc đề thi ngoài cửa khuyết.
Đi xa hơn nữa tới vùng Nancy, mang tên con gái êm đềm của một vang vọng tình cảm, là đường Cộng-Hòa, mà tôi tạm gọi là sông Tương chảy vào Trường-giang.
Tác giả Trần Hồng Châu còn nói rất nhiều nữa ( bảy trang giấy) về con đường Trần Hưng Đạo mà ông ví nó như một con sông chính có nhiều nhánh phụ chảy vào. Ông nhắc đến phía “hạ lưu” của dòng sông Trần Hưng Đạo có cái xóm Đề Thám của tôi với rạp hát Nguyễn văn Hảo, Ngã Tư Quốc Tế, một cách ưu ái. Ông gọi đó là “một vùng Giang, Triết phồn hoa”, “một trong vài tụ điểm của những người đẹp Saigon, một trong vài vương quốc của phụ nữ đô thành, của những cái gì đem lại một tấm linh hồn yểu điệu, nồng thắm cho trái tim miền Nam”. Ông khen cái khúc phố tôi ở có nhiều người đẹp, điều đó đúng, vì thằng bé mười mấy tuổi là tôi trong những năm cuối của thập niên 50 đã rong chơi cuối trời quên . học làm chứng cho ông. Tôi đoán chắc ông đã nhiều lần lân la ở phòng trà ca vũ nhạc Tháp Ngà (Tour d’Ivoire) nằm cùng một dãy với rạp Nguyễn Văn Hảo. ở đó thì khỏi nói, là nơi tụ họp của bao nhiêu ca sĩ tân nhạc thời danh như Kim Tước, Mỹ Thể, Bạch Yến, Bích Chiêu, Khánh Ngọc, người đẹp, quần áo đẹp, xe hơi đẹp, dân chơi cũng đẹp. Trai thanh và gái lịch nói cười rộn rã. Tiếng kèn saxophone, trombone, trumpet từ các cửa sổ trên lầu thoát ra vọng xuống đường mê hoặc. Những bóng đèn đủ màu chớp nháy chạy vòng khung bảng hiệu vũ trường nằm thẳng đứng càng làm cho môi son, má phấn, tóc mây trở nên thêm huyền hoặc. Gió mát của trời đêm thoảng mùi nước hoa Channel No. 5 mân mê tà áo gợi ngất ngây. Một vùng phồn hoa. Đúng quá phải không Người Tân Định?
Thật ra cái gì cũng có mặt trái của nó. Người ta thường có quan niệm văn chương thì phải hoa mỹ, bàn rộng khai triển mặt tốt và lượt bỏ những nét tiêu cực. Thành phố Saigon, dẫu mà khó thương, cũng vẫn là thành phố tôi đã lớn lên, đã sống, đã yêu, đã nuôi dưỡng tôi khôn lớn. Những nét xấu của nó không ít, nhất là cái xóm Đề Thám, rồi đến cái xóm Khánh Hội đã mang tiếng rất nhiều. Hai nơi đó có đầy đủ hết những tệ đoan của xã hội. Đề Thám có đĩ điếm, hút sách, cờ bạc, rượu chè. Vĩnh Hội có du đãng, trộm cướp, đá cá lăn dưa. Đã nói Saigon là thành phố có đầy đủ đặc tính của một thành phố bến cảng tất nhiên phải hiểu cái tốt và cái xấu cùng hiện hữu song hành bên nhau. Tôi không ca ngợi cái xấu, nhưng tôi cũng không nhắm mắt chối bỏ sự có mặt của nó. Xã hội nào cũng có mặt phải thắp sáng hào quang và mặt trái bị tránh né bỏ quên. Một thành phố tân tiến ở Bắc Mỹ cũng không ra khỏi ngoại lệ nầy, cũng có khu sang trọng, khu bình dân, cũng có những vấn nạn khó giải quyết và tệ đoan xã hội.
Thành phố nước văn minh tân tiến có lường gạt kiểu tinh vi hiện đại; Saigon chậm tiến lường gạt kiểu cò con. Dọc theo tường ngăn ga xe lửa Saigon đầu đường Phạm Ngũ Lão, vào những năm cuối của thập niên 1950, tôi thấy có mấy người Thượng người Mường, gia tài chỉ có một cái gùi, ngồi xổm bán thuốc dân tộc gia truyền trị bệnh tầm bậy và tà ma. Tôi bị họ níu lại một lần. Tuy nói tiếng Việt không rành bằng một giọng khó nghe, nhưng họ rất kiên trì giảng giải về mức công hiệu của thuốc. Trước hết, họ kêu hoặc ngoắc một khách bộ hành dừng lại rồi làm giọng như thương hại như thế nầy:”Chà! Cậu em đang bị bịnh nặng lắm đó! Da xanh, mặt mụn, cổ ốm cao nhòng! Dương khí đi đâu mất hết! Di tinh, mộng tinh, hoạt tinh, linh tinh! Hay là bị thư bùa ngải gì rồi! Lại đây, lại đây. Tui có thuốc nầy hay lắm! Ma lai trên rừng mà còn phải chịu thua! Có năm đồng thôi. Uống vô bảo đảm một tháng sau là hết! Không hết lợi đây tui trả tiền lại!” Dù trước đó chưa xanh mặt nhưng nghe họ phán xong, tôi cũng phải xanh vì sợ. Định bỏ đi thì bị níu lại:”Tui chỉ muốn cứu người làm vui, nếu cậu không có năm đồng thì trả tui hai đồng cũng được, miễn là cậu hết bịnh!”. Thằng nhỏ vốn cả nể nên mất toi hai đồng cho yên thân. Gói thuốc thì quăng luôn xuống cống. Mấy ngày sau đi ngang qua đó thì các thầy thuốc “dân tộc ít người” kia cũng đã chuồn đi chỗ khác! Đọc phóng sự Hà Nội Lầm Than của ký giả Trọng Lang, tôi mới biết nơi chốn thủ đô ngàn năm văn vật cũng có mặt những người Mường ngồi vĩa hè xóm Khâm Thiên bán thuốc trị bệnh kín cho các gái nhẩy nghèo.
Trên khúc đường Đề Thám giữa Trần Hưng Đạo và Cô Bắc có mấy tiệm may áo dài sát liền nhau, khách hàng thuộc phái đẹp dập dìu. Nhà may Hạnh Dung rất nổi tiếng trong giới nghệ sĩ cải lương. Bà chủ có hai cô con gái tên Hạnh và Dung, trạc tuổi tôi. Tình nhân của bà chủ là nghệ sĩ Thành Công, hay đến đó lắm. Mỗi ngày đi học, tôi bắt buộc phải đi ngang qua tiệm may, chạm mặt hoài. Một lần không biết vì lý do gì, em trai của tôi và em trai của Hạnh và Dung đánh lộn. Bạn trai của Hạnh cũng nhào vô chơi đòn hội chợ. Em tôi chạy về nhà kêu tôi tiếp cứu. Tôi nổi máu anh hùng, quên mất tấm thân ròm, cùng em tôi chạy trở lại chiến trường hỏi tội “bọn côn đồ” và đấm đá một trận với thằng bạn trai đáng ghét của Hạnh. Sau đó tôi mới biết nguyên nhân chỉ vì em tôi đi ngang qua tiệm may và bị bọn chúng chọc ghẹo, em tôi tức quá đáp lại vỏn vẹn hai tiếng “công ngủ”, thế là bị đánh!
Tưởng như vậy đã yên, ai dè sau đó ít lâu, một bữa bọn tôi ba đứa gồm có chú Mười tôi, thằng Kiệt em tôi và tôi đi học lội bộ về ngang qua đó, lại có chuyện xảy ra. Ba chị em Hạnh, Dung đi học trường Tây cũng vừa về tới nhà bằng xế hộp Peugeot 403. Hạnh Dung mặc đồ đầm bước xuống xe, tôi mới đưa mắt liếc một cái thì con chó berger từ trong tiệm may phóng ra sủa mừng bọn chủ. Chú Mười tôi (chú út, nhỏ hơn tôi mấy tháng) thích chọc chó hơn là ngó gái nên dậm chân giả bộ gừ gừ. Con chó quay qua, thằng em tôi sợ chó cắn nên chạy, hai chú cháu cũng chạy luôn, thế là con chó chạy theo và ngoạm vô ống giò của tôi một phát rách da chảy máu, báo hại tôi phải nghỉ học ngày hôm sau để cha tôi chở đi viện Pasteur chích ngừa bịnh dại. Tôi bị lụi kim vô bụng cả chục mũi, đau còn hơn chó cắn.
Ngã tư Đề Thám – Cô Bắc có hai tiệm nước (bán cà-phê, hủ tiếu) chéo góc nhau tây-bắc và đông-nam, góc tây-nam là phông-tên nước công cộng, góc đông-bắc có trường tư-thục Tiên-Long. Trường nầy rất có uy tín, với ban giáo-sư tên tuổi giàu kinh nghiệm, cỡ tuổi ba mươi mấy trở lên, phân nửa đã già. Pháp văn lúc bấy giờ vẫn còn là sinh ngữ chánh; thầy Đồng văn Nam với dáng người hom hem xổ tiếng Pháp nói với học trò, bắt học trò quỳ gối lia chia nhưng vô cùng tận tụy với nghề nghiệp, luôn luôn tự đánh máy bài giảng (cours) trên giấy pelure phát cho học trò. Tôi ngồi gõ keyboard bài viết nầy mà hình dung lại cảnh ông phải lụm khụm đánh máy chữ nhiều lần, mỗi lần từng xấp sáu tờ giấy mỏng có lót xen kẽ năm tờ giấy than được dùng đi dùng lại, tôi thấy tội nghiệp cho ông quá. Thầy Hồ Công Mến dạy hóa học cũng là kỹ sư ở Pháp về, đầu tóc bạc phơ, luôn luôn thắt cravate mặc complet màu ngà giống như một Trần Văn Hương. Thầy Lê Thọ Xuân cao gầy dạy Sử Địa là một học giả vừa dạy học vừa làm quản lý nhà in Maurice in sách cho nhà xuất bản Phạm Văn Tươi nên thân với học giả Nguyễn Hiến Lê, khuyên học trò chúng tôi nên mua cuốn bút ký phóng sự Bảy Ngày Trong Đồng Tháp Mười của Nguyễn Hiến Lê mà đọc. Thầy Tư Mã Lộ dạy Việt văn chắc cũng gần sáu chục, mặt đen, mang kính cận dầy, rất ngọt ngào với đám học trò, gọi đứa nào cũng bằng con hết. Thầy Phong dạy vật lý tương đối còn trẻ, dáng dấp cao lớn khỏe mạnh. Thầy Đông lai Tây, trắng trẻo, mắt sâu, tóc dợn sóng, dạy Anh-văn sinh-ngữ hai bằng quyển L’Anglais Vivant, sau đó mới đổi qua English for Today theo chương trình mới của Bộ Giáo Dục. Thầy Trần Hiếu Trung dạy vẽ phát họa bằng bút chì, thật chậm và thật kỹ, mỗi tuần chỉ có một giờ làm tôi sốt ruột. Tôi chỉ lo kẽ ô hình mấy minh tinh Doris Day, Linda Blair, Vivien Leigh, Debbie Raynold, Audrey Hepburn, Jayne Mansfield, và cóp-pi lại bằng màu nước để tặng cho tụi bạn gái trong lớp. Thầy dạy nhạc là nhạc-sĩ Văn Lương, tác giả của những bản nhạc Tía Em, Má Em, Anh Đi Giữa Trời Xuân, Thao Thức, Nhìn Theo Xe Hoa, Tiếng Hát Trên Ngàn, Giấc Mơ Không Đến Hai Lần, Tình Không Biên Giới, Người Yêu Của Tôi, Yêu Không Nói, Em Vẫn Là Hoa Khôi Thành Phố, Trăng Với Tuổi Trẻ, v.v. Thầy Văn Lương nhỏ con thôi, vậy mà ông lái một chiếc Harley Davidson đồ sộ, máy nổ rầm rầm, đúng là nghệ sĩ chịu chơi; trong khi những ông thầy khác đi dạy bằng xe tắc-xi, xe xích-lô đạp, xe Mobilette mà thôi.
Dường như trường Tiên Long là một ổ cách mạng, một tiểu tổ đảng phái hay một chi nhánh hội kín làm chính trị, vì cứ lâu lâu lại có một ông thầy biến mất, lâu lâu lại có công an mật vụ xuất hiện ở văn phòng nói chuyện với ông hiệu trưởng rất nghiêm trọng. Một vài thằng bạn trong lớp rõ chuyện nói với tôi là “thầy A, thầy B vô nằm trong Chí-Hòa rồi!” Tôi là đứa vô tư, đầu óc đơn giản, ham chơi hơn ham học, ham làm chuyện nhỏ hơn chuyện lớn, cho nên tôi không mấy quan tâm đến việc làm ngoài lớp học của mấy ông thầy. Lắm lúc nghĩ lại, tôi nhận thấy việc học hành của tôi gặp nhiều lận đận một phần do tôi khăng khăng nghe theo lời khuyên củ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét