Theo
sách Thế phả, từ thời Nguyễn Bặc cho đến ngày nay, thời nào họ Nguyễn ở
Gia Miêu ngoại trang (Thanh Hóa) cũng đều có người giữ những địa vị cao
trong các triều đại, và thường được phong tước công. Chỉ có một thay
đổi nhỏ so với lúc ban đầu là họ nầy lót thêm chữ "Phúc" vào thế kỷ 16.
Tương truyền rằng khi sắp sinh, vợ của Nguyễn Hoàng nằm mộng thấy thần
nhân cho một tờ giấy viết đầy chữ "Phúc". Có người đề nghị bà lấy chữ
"Phúc" đặt tên cho con, thì bà trả lời rằng: "Nếu đặt tên cho con thì
chỉ một người được hưởng phúc, chi bằng lấy chữ "Phúc" đặt làm chữ lót
thì mọi người đều được hưởng phúc". Bà liền đặt tên con là Nguyễn Phúc
Nguyên (1563-1635, cầm quyền 1613-1635). Từ đó, họ Nguyễn ở Gia Miêu
ngoại trang đổi thành họ Nguyễn Phúc.
1. Từ họ Lý ra họ Nguyễn
Đầu
năm 1226 (tháng 12 năm Ất Dậu), Trần Thủ Độ tổ chức đảo chánh lật đổ
nhà Lý, đưa Trần Cảnh lên ngôi tức Trần Thái Tông (trị vì 1226-1258),
lập ra nhà Trần (1226-1400).
Nguyên
Trần Thủ Độ ép vua Lý Huệ Tông (trị vì 1211-1224) nhường ngôi cho người
con gái mới sáu tuổi là Chiêu Thánh công chúa tháng Mười năm giáp thân
(cuối 1224), tức Lý Chiêu Hoàng (trị vì 1224-1225). Lý Huệ Tông lên làm
thái thượng hoàng, xuất gia đi tu tại chùa Chân Giáo, pháp danh là Huệ
Quang thiền sư. Trần Thủ Độ sắp đặt cho con cháu của mình là Trần Cảnh,
mới tám tuổi, cưới Lý Chiêu Hoàng. Chiêu Hoàng lại nhường ngôi cho chồng
là Trần Cảnh tức Trần Thái Tông.
Để
củng cố nhà Trần, Trần Thủ Độ kiếm cách tiêu diệt tất cả con cháu nhà
Lý. Việc đầu tiên là Trần Thủ Độ bức tử thượng hoàng Lý Huệ Tông. Một
hôm ngang qua chùa Chân Giáo gặp thiền sư Huệ Quang đang nhổ cỏ trong
vườn, Trần Thủ Độ nói rằng: "Nhổ cỏ phải nhổ hết rễ cái". Nghe thế thầy
Huệ Quang trả lời: "Lời nhà ngươi nói ta hiểu rồi". Sau đó, Trần Thủ Độ
cho người mời thầy Huệ Quang vào triều bàn việc. Huệ Quang biết ý, vào
sau chùa thắt cổ tự vận. (1)
Trần
Thủ Độ ra lệnh đem gả các cung nhân và con gái họ Lý cho các tù trưởng
các bộ tộc ít người ở các vùng núi xa xôi miền biên viễn. Tháng tư năm
nhâm thìn (1232), nhân việc ban chữ húy về tiên tổ họ Trần, ông nội của
Trần Thái Tông tên là Trần Lý, nên Trần Thủ Độ đưa ra biện pháp quyết
liệt là buộc con cháu họ Lý phải đổi thành họ Nguyễn.
Gần
cuối năm nhâm thìn (1232), tôn thất nhà Lý tập trung làm lễ tế tổ tiên ở
thôn Thái Đường, xã Hoa Lâm (nay thuộc Bắc Ninh). Trần Thủ Độ cho làm
nhà tế lễ bằng tre lá trên một cái hầm, khi con cháu nhà Lý tập trung
hành lễ, Trần Thủ Độ ra lệnh chôn sống hết con cháu nhà Lý để dứt điểm
một vấn đề làm cho Trần Thủ Độ lo lắng bấy lâu nay. Sau cuộc thanh trừng
khủng khiếp này, con cháu nhà Lý không còn dám về Bắc Ninh làm lễ tế
hàng năm, và họ thay tên đổi họ sống lẫn khuất trong dân gian để tránh
bị tiêu diệt. (2)
Đặc
biệt hoàng tử Lý Long Tường, con trai thứ của Lý Anh Tông đã bỏ nước ra
đi năm 1226, cùng đoàn tùy tùng khoảng 40 người vượt biên sang lập
nghiệp ở Triều Tiên hay Cao Ly tức Korea. Tám trăm năm sau, con cháu của
hoàng tử này đã về Việt Nam thăm lại đất tổ. (3)
Một
câu hỏi cần được đặt ra là tại sao triều đình nhà Trần buộc họ Lý đổi
thành họ Nguyễn mà không qua họ khác ?. Điều này rất khó trả lời vì
không có tài liệu cụ thể, chỉ biết được rằng họ Nguyễn là một dòng họ ít
người bên Trung Hoa, và ngược lại họ Nguyễn có nhiều và có sớm ở nước
ta. (4) Phải chăng Trần Thủ Độ muốn cho họ Lý hòa lẫn trong số đông
người Việt rải rác khắp nước ?
2. Họ Trần qua họ Trình
Để
quân Minh chóng rút về nước, cuối năm 1427, Lê Lợi chấp nhận giải pháp
hòa bình trong danh dự cho cả hai bên: trước đây quân Minh xâm lăng nước
ta dưới chiêu bài "phù Trần diệt Hồ", nay Lê Lợi đồng ý đưa Trần Cao
lên ngôi, xem như quân Minh viễn chinh đã đạt được mục đích ban đầu là
đưa người họ Trần trở lại ngôi báu, nay rút về nước trong vinh quang.
(5)
Sau
khi quân Minh về nước, Trần Cao biết thân phận mình, bỏ trốn về châu
Ngọc Ma (Nghệ An), nhưng bi bắt lại, và uống thuốc độc chết. Lê Lợi lên
ngôi vua, tức Lê Thái Tổ (trị vì 1428-1433).
Lê
Thái Tổ được nước không do một cuộc đảo chánh cung đình mà do công lao
chiến đấu của chính ông và gia đình, nên ông ít có thái độ kỳ thị với họ
Trần là họ cầm quyền trước đó. Ông có một sách lược rất khôn khéo là
ban quốc tính rộng rãi cho các công thần. Ngay khi vừa lên ngôi năm
1428, Lê Thái Tổ ra sắc chỉ cho ghi chép công trạng của những người đã
theo vua khởi nghĩa, ban chức tước và quốc tính (họ của nhà vua) cho 221
người. Đây là đợt ban quốc tính nhiều nhất trong lịch sử nước ta, đến
nỗi vua Tự Đức đã lên tiếng chê rằng "... cho quốc tính nhiều quá như
thế nầy thì nhàm lắm". (6)
Việc
làm nầy của Lê Thái Tổ bề ngoài xem ra là một đặc ân, nhưng thật sự là
một thủ đoạn chính trị ràng buộc các công thần bằng cách đồng hóa các
quan vào họ nhà vua để dễ kiểm soát nhằm tránh hậu hoạn. Lê Thái Tổ là
một người rất đa nghi. Những công thần đã cùng ông dày công đóng góp cho
công cuộc giải phóng đất nước mà có bất cứ một biểu hiện nào khả nghi
tức thì bị Lê Thái Tổ tiêu diệt ngay.
Nạn
nhân đầu tiên là Lê Hãn tức Trần Nguyên Hãn. Trần Nguyên Hãn dòng dõi
Trần Nguyên Đán, lập nhiều chiến công thời kháng Minh, được phong Hữu
tướng quốc và họ Lê năm 1428, sau khi Lê Thái Tổ cầm quyền. Lê Hãn cho
rằng "nhà vua có tướng như Việt Vương Câu Tiễn, không thể cùng hưởng yên
vui sung sướng được", nên ông bắt chước Trương Lương, xin rút lui về
hưu dưỡng. "Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng", khi Lê Hãn về ấp Sơn Đông
(Sơn Tây ngày nay) hưu dưỡng, ông vẫn bị gièm pha là mưu toan làm phản.
Lê Thái Tổ ra lệnh cho người đến bắt. Khi thuyền đến bến sông Sơn Đông,
Lê Hãn tự trầm mình qua đời (7) Dĩ nhiên việc trầm mình nầy cũng là một
dấu hỏi lớn không bao giờ được trả lời.
Sau
Lê Hãn đến Lê Văn Xảo tức Phạm Văn Xảo, bị Lê Thái Tổ nghe lời gièm pha
ra lệnh phải chết và tịch thu nhà cửa cuối năm 1430. Dưới triều con của
Lê Thái Tổ là Lê Thái Tông (trị vì 1434-1442), thêm ba vị đại công thần
bị giết là Lê Nhân Chú (1434), Lê Sát (1437), và Lê Ngân (1437). Ngoài
ra còn có Lê Khả và Lê Khắc Phục bị triệt hạ vào năm 1451 thời vua Lê
Nhân Tông (trị vì 1443-1459).
Sau
khi Lê Nghi Dân bị các tướng lãnh phản đảo chánh và lật đổ năm 1460, Lê
Thánh Tông (trị vì 1460-1497) được sử sách đánh giá là một minh quân,
nhưng lại đi vào vết xe của nhà Trần. Vừa cầm quyền được hai tháng, Lê
Thánh Tông hạ chiếu ra lệnh đổi tên những họ nào đã phạm vào chữ huý của
Cung Từ hoàng thái hậu. Bà nầy tên huý là Phạm Ngọc Trần, người làng
Quần Lai, huyện Lội Dương (Thanh Hóa), vợ của Lê Thái Tổ, mẹ của Lê Thái
Tông, tức bà nội của Lê Thánh Tông. Nhà vua cho rằng bà nội của mình
tên Trần nên yết thị cho dân chúng khắp nước, nơi nào có họ "Trần" đều
phải đổi chép thành chữ "Trình".
Tại
sao thời Lê Thái Tổ, rồi đến Lê Thái Tông và Lê Nhân Tông, các vua
không kỵ huý bà Cung Từ mà Lê Thánh Tông lại kỵ huý ? Phải chăng sau
những biến động của triều đình kể từ khi Lê Thái Tông bất đắc kỳ tử năm
1442, và Lê Nhân Tông bị Lê Nghi Dân lật đổ và bắt giết năm 1459, Lê
Thánh Tông đã dùng cách kỵ huý (như Trần Thủ Độ trước đây) để tách ảnh
hưởng của họ Trần, hoặc để ngầm đe dọa con cháu họ Trần đừng kiếm cách
lợi dụng tình hình để phục hồi triều đại cũ.
Dầu
sao, Lê Thánh Tông chưa đi đến chỗ quyết liệt như Trần Thủ Độ, nghĩa là
Lê Thánh Tông vẫn chưa tận diệt họ Trần, và để cho những người họ Trần
giữ những chức quan nhỏ như trong đoàn sứ thần gởi sang nhà Minh năm
nhâm ngọ (1462) có Trần Bàn, hoặc trong viện Khâm hình của triều đình
lúc đó có Trần Phong, nhưng không thấy có nhân vật nào họ Trần giữ chức
vụ quan trọng mãi đến thời kỳ loạn lạc sau khi Mạc Đăng Dung đảo chánh
(1527) mới thấy vài nhân vật họ Trần xuất hiện trở lại trên sân khấu
chính trị nước ta.
3. Họ Mạc đổi thành nhiều họ
Mạc
Đăng Dung thuộc dòng dõi Mạc Đỉnh Chi, đỗ cử nhân võ và làm đô chỉ huy
sứ năm 1508 (mậu thìn), nhờ thời thế dần dần được các vua nhà Lê tin
dùng, thăng dần lên chức thái phó tiết chế các doanh quân thủy bộ, tước
Nhân Quốc Công triều vua Lê Chiêu Tông (trị vì 1516-1522). Quyền hành
càng ngày càng lớn, Mạc Đăng Dung lấn ép vua Lê và cuối cùng đảo chánh
lật đổ vua Lê Cung Hoàng (trị vì 1522-1527), tự mình lên làm vua tức Mạc
Thái Tổ (trị vì 1527-1530) lập ra nhà Mạc.
Nhà
Mạc cầm quyền từ thời Mạc Thái Tổ đến thời Mạc Mậu Hợp (trị vì
1562-1592), truyền được năm đời trong 65 năm. Trong lịch sử, họ Mạc bị
lên án về các lỗi lầm sau đây:
Tổ chức đảo chánh lật đổ nhà Lê, không trung quân (1527).
Đầu hàng nhà Minh và cắt đất chia cho nhà Minh (1540).
Trước
hết, bất cứ một cuộc đảo chánh nào cũng đều có phản ứng cả. Từ Lê Hoàn,
Trần Thủ Độ đến Lê Quý Ly, tất cả đều bị những cựu quan bảo thủ của
triều trước, mất quyền lợi đứng lên phản đối. Mạc Đăng Dung cũng nằm
trong trường hợp đó.
Thứ
đến, chúng ta cần chú ý: ai là người đã lên án gắt gao họ Mạc ? Câu trả
lời rất rõ ràng là các sử quan nhà Lê trung hưng là những người đầu
tiên lên án họ Mạc. Việc nầy rất dễ hiểu vì nhà Mạc dẹp nhà Lê, nay
trung hưng được thì nhà Lê kết tội nhà Mạc. Sau đó là các sử quan nhà
Nguyễn vì nhà Nguyễn không muốn ai lật đổ ngôi báu của mình nên lên án
tất cả những ai đã tổ chức đảo chánh cung đình.
Nhưng
"ở đời muôn sự của chung", một triều đại (chính quyền) yếu đuối, kém
khả năng cần được thay thế bằng một triều đại (chính quyền) khác hữu
hiệu hơn để cai trị nước, đó là lẽ tự nhiên, nên việc đảo chánh của Mạc
Đăng Dung không đáng bị lên án như các sách vở trước đây đã làm.
Việc
đầu hàng nhà Minh và cắt đất xin hàng cần được xét lại trong hoàn cảnh
lúc bấy giờ. Sau khi nhà Lê mất ngôi, hai vị cựu thần nhà Lê là Trịnh
Ngung và Trịnh Ngang chạy qua nhà Minh tố cáo hành động của Mạc Đăng
Dung và xin nhà Minh đưa quân qua hỏi tội họ Mạc năm 1529 (kỷ sửu). (9)
Năm
1533 (quý tỵ), Nguyễn Kim tìm được con của Lê Chiêu Tông là Lê Duy
Ninh, lập lên làm vua là Lê Trang Tông (trị vì 1533-1648) trong lúc đang
lưu vong tại Ai Lao. Lê Trang Tông sai Trịnh Duy Liễu cùng hơn mười
người đi đường biển từ Chiêm Thành theo thuyền buôn Quảng Đông tới Trung
Hoa xin thỉnh cầu nhà Minh xuất quân đánh nhà Mạc. Năm 1536 (bính
thân), một lần nữa Lê Trang Tông sai Trịnh Viên yêu cầu nhà Minh đánh họ
Mạc.
Hành
động của vua Lê, kêu gọi người nước ngoài về đánh nước mình, trong đó
có ý kiến cố vấn của Nguyễn Kim, không bị một sử gia nào lên án. Việc
làm nầy đưa đến kết quả cụ thể là nhà Minh cử Cừu Loan làm tổng đốc, Mao
Bá Ôn làm tán lý quân vụ đem binh mã sang ải Nam Quan năm 1540. Ngược
lại, trong thế yếu, muốn tránh một cuộc chiến mà mình nắm chắc phần thất
bại, đồng thời dân Việt sẽ một lần nữa bị đặt dưới ách thống trị trực
tiếp của ngoại nhân như thời Mộc Thạnh, Trương Phụ, Mạc Thái Tổ, lúc đó
đã lên làm thái thượng hoàng, đành chấp nhận đầu hàng và chấp nhận hy
sinh danh dự cá nhân, lên ải Nam Quan (Lạng Sơn) chịu nhục. Nhờ sự nhẫn
nhục của Mạc Thái Tổ, nước ta trên danh nghĩa là lệ thuộc Trung Hoa,
nhưng trong thực tế vẫn độc lập một phương, vua Mạc vẫn cai trị đất đai
từ Lạng Sơn trở xuống, đâu có viên tướng Tàu nào bén mảng sang cai trị.
Ai cũng bảo Mạc Đăng Dung đầu hàng nhà Minh vì quyền lợi gia đình họ
Mạc, nhưng giả thiết, một giả thiết không bao giờ có thể quay lại được,
Mạc Đăng Dung chống cự quân Minh như họ Hồ, nước ta bị tái đô hộ, thì
nhân dân ta còn khổ biết bao nhiêu nữa. Đàng nầy, Mạc Đăng Dung một mình
chịu nhục cho trăm họ bình yên. Người ta ưa ca tụng Hàn Tín khi nghèo
khổ đã lòn trôn tên bán thịt chợ Hoài Âm (Trung Hoa) như là một gương
nhẫn nhục đáng noi theo, nhưng chẳng một ai chịu chia xẻ với nỗi nhẫn
nhục vĩ đại của Mạc Đăng Dung. Mạc Đăng Dung rất buồn tủi về sự kiện Nam
Quan (Lạng Sơn) nên về nhà chưa được một năm, ông nhuốm bệnh từ trần
năm 1541.
Cuối
cùng việc cắt đất nghe ra khá to lớn, nhưng đó chỉ là năm động của
những sắc tộc ít người nằm ở vùng biên giới Hoa Việt: Ty Phù, Kim Lặc,
Cổ Sâm, Liễu Cát, và La Phù thuộc châu Vĩnh An, ở Yên Quảng. Chúng ta
cần chú ý là những sắc tộc ít người sinh sống trong các động dọc biên
giới Hoa Việt không nhất định về theo chính quyền Trung Hoa hay Đại
Việt, mà chỉ bên nào mạnh thì họ triều cống để được yên thân. Do đó,
việc cắt đất nầy chỉ có tính cách giấy tờ chứ trên thực tế là bên nào
mạnh họ theo.
Trong
khi đó, sau khi trở về Thăng Long, năm 1596 vua Lê Thế Tông (trị vì
1573-1599) cử người đem hình dạng hai quả ấn của nhà Mạc và vua Lê lên
Nam Quan cho đại diện nhà Minh khám xét, nhưng quan nhà Minh không chịu,
bắt vua Lê phải thân hành đến gặp. Vua Lê phải chấp hành, nhưng khi đến
nơi đợi lâu quá không được gặp quan nhà Minh, vua Lê đành trở về, rối
năm sau (1597) lên một lần nữa mới được hội kiến. (10) Sự kiện nầy chẳng
khá gì hơn việc Mạc Đăng Dung lên Nam Quan năm 1540.
Vì
quá ham lên án nhà Mạc, sử sách lơ là những công trạng đáng nhớ của nhà
Mạc. Sau khi Trịnh Tùng chiếm lại Thăng Long, nhà Mạc chạy lên Cao
Bằng, rồi chạy sang Trung Hoa. Trước khi từ trần năm 1594, đại tướng nhà
Mạc là Mạc Ngọc Liễn để thư lại dặn vua Mạc Kính Cung: "... Họ Lê lại
trung hưng, đó là số trời. Còn như dân ta là người vô tội, sao lại nỡ để
cho dân mắc vào vòng mũi tên hòn đạn lâu mãi như vậy! Chúng ta nên lánh
ở nước khác, cốt phải cẩn thận giữ gìn, đừng lại cố sức chiến đấu với
họ nữa. Lại dứt khoát chớ có đón rước người Minh kéo sang nước ta để đến
nỗi dân ta phải lần than khốn khổ ..." (11)
Đây
không phải lời nói suông trong cảnh trà dư tửu hậu, nhưng đây là tâm
huyết của một con người sắp nằm xuống trong cơn hoạn nạn cùng cực vì mất
nước. Suốt trong lịch sử Việt Nam, chúng ta thường được nghe những lời
nói của Trần Hưng Đạo, Trần Bình Trọng, Đặng Dung, hào hùng như vó ngựa
tổ tiên, nhưng ít khi được đọc những dặn dò như Mạc Ngọc Liễn, nhân bản,
đầy tình tự dân tộc không khác gì lời ru êm ái trong những câu ca dao
mộc mạc.
Điểm
quan trọng nhất là con cháu nhà Mạc đã không kêu nài van xin người Minh
đem quan sang đánh nước ta giống như nhà Lê đã làm. Họ chỉ yêu cầu nhà
Minh can thiệp cho họ về sinh sống đất Cao Bằng. Chính họ đã góp công
phát triển Cao Bằng, tạo thế đoàn kết kinh thượng và biến Cao Bằng thành
một vùng biên giới vững chắc để chống lại Trung Hoa. Công trạng nầy tuy
không rực rỡ như đường về phương nam của chúa Nguyễn, nhưng sử sách
cũng không thể quên tuyên dương họ Mạc.
Khi
Trịnh Tùng chiếm được Thăng Long, trung hưng nhà Lê (1593), con cháu họ
Mạc tẩu tán khắp nước, một số lên Cao Bằng, một số chạy vào Thanh Hóa,
Nghệ An ẩn trốn, và một số vào Nam theo chúa Nguyễn. Con cháu họ Mạc đổi
ra rất nhiều họ khác nhau. Sách Thế phả ghi rõ là con của Mạc Đăng
Doanh, em của Mạc Kính Điển là Mạc Cảnh Huống vào Nam theo Nguyễn Hoàng,
sau con là Mạc Cảnh Vinh đổi là Nguyễn Hữu Vinh. (12) Không những chỉ
một họ Nguyễn, mà chắc chắn còn nhiều họ khác nữa. Trước đây, những họ
nầy không lên tiếng vì một mặt sợ các chính quyền quân chủ trả thù, và
một mặt việc sử sách lên án triều đại nhà Mạc ít nhiều gây những ưu
phiền cho con cháu họ nhà nầy. Hy vọng sẽ có một ngày nào đó, con cháu
những họ nầy thấy rõ rằng nhà Mạc không đáng bị lên án như người ta đã
làm xưa nay, bỏ qua những ưu phiền không đáng, sẽ lên tiếng để tìm về
gốc gác ông bà mình.
Qua
ba cuộc đổi họ trên đây, lý do chính đưa đến việc đổi họ là do tiên tổ
các họ nầy đã lên nắm chính quyền, lập triều đại, sau bị truất phế và bị
nghi ngờ nên con cháu bị bắt buộc phải đổi họ. Ngược lại, trong lịch sử
nước ta, có một dòng họ lớn từ thời Ngô Quyền lập quốc cho đến nay
không thay đổi mà mỗi ngày một phát triển, hưng thịnh. Đó là họ Nguyễn
Phúc ở Gia Miêu ngoại trang, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa.
4. Một họ lớn không thay đổi
Theo
Thế phả, "Đức Định Quốc Công huý là Nguyễn Bặc, thân phụ và thân mẫu
của ngài không được rõ, ngài được xem là thuỷ tổ của dòng họ Nguyễn
Phúc." (13)
Nguyễn
Bặc (924-979) là bạn chí thân từ thuở hàn vi và là cận thần của Đinh Bộ
Lĩnh tức Đinh Tiên Hoàng (trị vì 968-979). Khi Đinh Tiên Hoàng lên ngôi
vua, Nguyễn Bặc được phong Định Quốc Công, đứng đầu các công thần. Năm
979, Đinh Tiên Hoàng bị ám sát, Nguyễn Bặc bắt giết ngay kẻ thích khách
là Đỗ Thích, và tôn phò con của Đinh Tiên Hoàng là Vệ Vương Đinh Tuệ. Lê
Hoàn có ý làm phản nhà Đinh, Nguyễn Bặc chống đồi, cầm quân đánh Lê
Hoàn, nhưng bị Lê Hoàn bắt giết.
Theo
sách Thế phả, tức sách gia phả của dòng họ nầy, từ thời Nguyễn Bặc cho
đến ngày nay, thời nào họ Nguyễn ở Gia Miêu ngoại trang (Thanh Hóa) cũng
đều có người giữ những địa vị cao trong các triều đại, và thường được
phong tước công. Chỉ có một thay đổi nhỏ so với lúc ban đầu là họ nầy
lót thêm chữ "Phúc" vào thế kỷ 16. Tương truyền rằng khi sắp sinh, vợ
của Nguyễn Hoàng nằm mộng thấy thần nhân cho một tờ giấy viết đầy chữ
"Phúc". Có người đề nghị bà lấy chữ "Phúc" đặt tên cho con, thì bà trả
lời rằng: "Nếu đặt tên cho con thì chỉ một người được hưởng phúc, chi
bằng lấy chữ "Phúc" đặt làm chữ lót thì mọi người đều được hưởng phúc".
Bà liền đặt tên con là Nguyễn Phúc Nguyên (1563-1635, cầm quyền
1613-1635). Từ đó, họ Nguyễn ở Gia Miêu ngoại trang đổi thành họ Nguyễn
Phúc. (14)
Dù
có người nghĩ rằng các tác giả Thế phả đương nhiên tâng bốc tổ tiên
mình, nhưng không ai có thể phủ nhận những khuôn mặt lớn trong quá trình
lịch sử dân tộc như Nguyễn Bặc, Nguyễn Nộn (?-1229), Nguyễn Kim
(1468-1545), Nguyễn Hoàng (1525-1613), Nguyễn Phúc Tần (1620-1687, cầm
quyền 1648-1687) ...
Thời
điểm cực thịnh của họ Nguyễn Phúc là việc llên ngôi năm 1802 của Nguyễn
Phúc Ánh tức vua Gia Long (trị vì 1802-1819), đóng đô tại Phú Xuân, cai
trị một đất nước rộng lớn nhất so với các triều đại trước, từ Lạng Sơn
đến Cà Mau. Các vua Nguyễn rất đông con nên ngoài việc lập Tôn nhân phủ
(15) như các triều đại trước để quản lý người trong hoàng gia, vua Minh
Mạng (trị vì 1820-1840) còn làm một bài đế hệ thi và mười bài phiên hệ
làm chữ lót cho con cháu Nguyễn Phúc để phân định thứ bậc các hệ phái từ
con cháu của Gia Long trở xuống.
Năm
1945, vua Bảo Đại (trị vì 1925-1945) thoái vị tại Huế, chấm dứt chế độ
quân chủ tại nước ta, nhưng họ Nguyễn Phúc, vốn rất đông người từ thời
các vua Nguyễn, vẫn cứ phát triển vững vàng, và có nhiều nhân vật nổi
tiếng trong khắp các lãnh vực chính trị, quân sự, văn hóa, học thuật,
kinh tế, khoa học ... chẳng những ở trong nước mà cả trên thế giới.
CHÚ THÍCH:
Quốc
sử quán triều Nguyễn, Việt sử thông giám cương mục, gọi tắt là Cương
mục, bản dịch của Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội, 1957, tr. 448-449.
Cương mục, bản dịch, tr. 456.
Nguyệt san Làng Văn, Toronto, Canada, số 125, tháng 1-1995, tr. 17.
Chỉ
cần xem lịch sử danh nhân Trung Hoa, chúng ta thấy rất ít người họ
Nguyễn; trong các từ điển danh nhân Việt Nam, họ Nguyễn rất nhiều. Ngày
nay, mở danh bạ điện thoại, chúng ta thấy họ Nguyễn chiếm khoảng gần
50%.
Thổ
quan châu Ngọc Ma (Nghệ An), tên là Hồ Ông, tự xưng là cháu ba đời vua
Trần Nghệ Tông (trị vì 1370-1372). Cuối năm bính ngọ (1426), để đáp ứng ý
muốn của người Minh trong các cuộc thương thuyết, Lê Lợi cho đón Hồ Ông
về, đổi tên là Trần Cao, đặt lên làm vua, lấy niên hiệu là Thiên Khánh.
(Cương mục, bản dịch tr. 803-804)
Cương mục, bản dịch tr. 864-865.
Cương mục, bản dịch tr. 880.
Cương mục, bản dịch tr. 1013.
Cương mục, bản dịch tr. 1327.
Cương mục, bản dịch tr. 1418-1419.
Cương mục, bản dịch tr. 1411.
Nguyễn Phúc tộc thế phả, Hội đồng trị sự Nguyễn Phúc tộc, Nxb. Thuận Hóa 1995, tr. 126. Gọi tắt Thế phả.
Thế phả, tr. 21.
Thế phả, tr. 113. Chú ý: Chữ "Phúc" còn được đọc là "Phước".
Sau năm 1954, Tôn nhân phủ đổi thành Hội đồng Nguyễn Phúc tộc.
Trần Gia Phụng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét