Thừa
Thiên Huế từng là một vùng đất định đô của vua chúa suốt nhiều thế kỷ.
Về mặt tâm linh và tư tưởng, người dân đa số thấm nhuần Phật giáo và Nho
giáo. Trong khi Phật giáo dẫn đạo tư tưởng ở bình diện trừu tượng và
siêu hình, thì Nho giáo thâm nhập trực tiếp hơn vào đời sống hàng ngày
của người dân và được xem như một “đạo làm người” hay như một “thuật xử
thế” đi vào phong tục, tập quán.
Ứng xử trong gia đình
Người dân
Huế đặc biệt nặng lòng với gia đình, có khi sống khuôn vào gia đình.
Hiện tượng “kín cửa” hoặc “kín cổng cao tường” thường bắt gặp ở Huế nơi những gia đình mệnh danh là “đại gia” và “hoàng phái” khiến cho con gái trở thành cao giá và con trai thiếu thích nghi với xã hội. Tình trạng này nay đã thuyên giảm nhiều. Trong họ hàng, gọi bà con phía nội là chú (em trai của cha), bác (anh của cha), cô hoặc o (chị hoặc em gái của cha), còn phía ngoại là dì (chị hoặc em gái của mẹ), dượng (chồng của dì), cậu (anh hoặc em trai của mẹ).
Hiện tượng “kín cửa” hoặc “kín cổng cao tường” thường bắt gặp ở Huế nơi những gia đình mệnh danh là “đại gia” và “hoàng phái” khiến cho con gái trở thành cao giá và con trai thiếu thích nghi với xã hội. Tình trạng này nay đã thuyên giảm nhiều. Trong họ hàng, gọi bà con phía nội là chú (em trai của cha), bác (anh của cha), cô hoặc o (chị hoặc em gái của cha), còn phía ngoại là dì (chị hoặc em gái của mẹ), dượng (chồng của dì), cậu (anh hoặc em trai của mẹ).
Ứng xử ngoài xã hội
Con
người ở đây có những cảm nghĩ và hành động nhiều khi đối nghịch nhau,
ngay trong ăn uống, nói năng hay trong ứng xử. Huế là một trung tâm của
lối ăn chay, tức là ăn lạt (nhạt), vậy mà người ở đây lại thích ăn cay.
Nói năng từ tốn, điềm đạm (thiếu nữ Huế nổi tiếng dịu dàng, e lệ, rụt
rè), nhưng lại quả quyết, dứt khoát. Trong ứng xử, phản ứng đầu tiên
được thể hiện bằng tiếng “dạ” nghe như bằng lòng, chấp thuận, nhưng tiếp
theo đó là cân nhắc, suy tính. Thanh niên Huế tưởng như Sông Hương lờ
đờ, trầm mặc, vậy mà có thể hành động tiên phong, quyết liệt như đã
từng chứng tỏ qua các lần nổi dậy chống lại áp bức của Thực Dân Pháp và
Đế Quốc Mỹ. Dân nghèo nhưng sang (người ta bảo đó là tính “đài đệ”,
tính “đế đô”), ít nói nhưng hay bắt bẻ, lý sự, còn trong lòng chất chứa
nhiều mối giằng co.
Đối với
khách, con người Huế thường dè dặt, thận trọng trong lời nói, thái độ,
có khi như thiếu cởi mở, nói chung hiếu khách nhưng vẫn tỏ ra chừng
mực, có khi bảo thủ, vì e ngại ngộ nhận.
Dạ thưa tiếng Huế bây giờ.
Khách
tham quan đến Huế, ngoài lời ngợi ca vẻ đẹp của sông núi, di tích và
con người nơi đây, còn thích thú với giọng nói nhỏ nhẹ của người Huế,
đặc biệt là con gái Huế. Một nhà thơ đã viết một cách hình tượng "Em ơi
giọng Huế có chi. Mà trong hoa nắng thềm thì cơn mưa".
Ngôn ngữ
là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người nên nói đến bản
sắc văn hóa của một dân tộc, một vùng đất không thể không nói đến ngôn
ngữ. Cũng như nhiều ngôn ngữ khác, tiếng Việt có các phương ngữ của
nhiều những vùng đất khác nhau và trong mỗi phương ngữ chung lại có
những phương ngữ nhỏ hơn.
Các nhà
Việt ngữ học tương đối thống nhất về việc phân chia phương ngữ tiếng
Việt thành ba phương ngữ chính là phương ngữ Bắc (Bắc Bộ và Thanh Hóa),
phương ngữ Trung (từ Nghệ An đến Thừa Thiên Huế) và phương ngữ Nam (từ
Đà Nẵng trở vào).
Người Huế
được xem là nói năng nhỏ nhẹ, khác với giọng nói phóng khoáng của cư
dân Nam Bộ, giọng nói sắc ngọt của người miền Bắc, giọng nói dõng dạc
của đất Quảng Nam. Huế thuộc phương ngữ Trung nhưng nói năng nhỏ nhẹ
hơn ngay chính những vùng khác thuộc phương ngữ Trung như Nghệ An, Hà
Tĩnh, Quảng Bình.
Đặc trưng
nhỏ nhẹ từ yếu tố thiên nhiên. Huế là một vùng sông nước hữu tình,
người Huế có tâm hồn đa cảm gần với thi ca nên được ví von người Huế
như được "mớm" thơ từ trong sữa mẹ. Vì vậy, nhỏ nhẹ trong lời nói, ứng
xử là một phong thái của người dân sống ở xứ Đẹp và Thơ.
Đặc
trưng nhỏ nhẹ từ yếu tố lịch sử. Huế từng là thủ phủ của xứ Đàng Trong
rồi trở thành kinh đô của đất nước thống nhất nên ngoài cung cấm còn có
nhiều phủ đệ, quan viên, con vua cháu chúa rất nhiều. Sinh hoạt của
tầng lớp quí tộc, trong đó có cách ăn nói của họ đã ảnh hưởng đến lối
sống của đất thần kinh. Vua chúa với quyền uy của mình không cần ăn to
nói lớn, quan lại cũng không dám nói mạnh trước đức vua và triều thần. Ở
kinh đô, tai vách mạch rừng, lời nói phải từ tấn nhỏ nhẹ, tránh lỡ lời
mà mang vạ vào thân. Chốn kinh đô cũng cần sự trang nghiêm, kính cẩn,
yên tĩnh cho sinh hoạt của vương triều cũng như cộng đồng xã hội phong
kiến nơi đây. Gần 350 năm thủ phủ nửa miền đất nước và kinh đô thống
nhất, phong thái ấy đủ để lại dấu ấn trong cộng đồng ngôn ngữ.
Không thể
không xét đến các yếu tố lịch sử, địa lý, hoàn cảnh xã hội nhưng cái
quan trọng là phải căn cứ vào các đặc điểm của ngôn ngữ. Giọng Huế nghe
đều đều, nhỏ nhẹ là do một số đặc điểm về ngữ âm.
Khác với
các vùng khác của phương ngữ Trung chỉ có 4 thanh điệu trong 6 thanh
điệu tiếng Việt (thanh hỏi, thanh ngã lẫn vào thanh nặng), phương ngữ
Huế có 5 thanh điệu (thanh ngã lẫn vào thanh hỏi) giống với phương ngữ
Nam. Tuy nhiên, qua phân tích sơ đồ âm phổ, khoảng cách về cao độ trong
tiếng Huế nhỏ hơn so với tiếng Sài Gòn và càng nhỏ hơn nhiều so với
tiếng Hà Nội. Khoảng cách thấp về cao độ của các thanh điệu tức là cao
độ thì không bổng quá mà cũng không trầm quá dẫn đến âm vực của lời nói
dao động không lớn, ngữ điệu cứ đều đều. nhỏ nhẹ. Theo Phó Giáo sư
Vương Hữu Lễ trong bài Các đặc điểm ngữ âm của tiếng Huế (Thông tin Khoa
học và Công nghệ, số 1, năm 1992) đặc trưng nhỏ nhẹ của tiếng Huế bên
cạnh yếu tố thanh điệu còn do sự chi phối của các nguyên âm, phụ âm. Về
nguyên âm, đó là sự chuyển hóa nguyên âm có xu hướng thu hẹp độ mở,
làm giảm đi âm lượng khiến cho độ vang sút kém. Về phụ âm, sự chuyển
hóa phụ âm đầu tắc qua xát làm cho cường độ của âm tiết bì yếu đi, các
phụ âm cuối lợi được thay bằng các âm mạc làm cho giọng nói không bí
dằn mạnh.
Đặc trưng
về ngữ âm làm hạn chế khả năng diễn đạt của tiếng Huế bởi giọng nói
nhỏ nhẹ trong đời thường đi vào lòng người nhưng không phù hợp với cách
thể hiện trên các phương tiện truyền thông như phát thanh, truyền hình
và các loại hình cần có sự diễn xuất uyển chuyển như kịch nói, điện
ảnh. Đặc trưng về ngữ âm còn ít nhiều tác động đến năng lực ứng xử tình
huống của người Huế bởi năng lực ứng xử cần thể hiện bằng lời nói tức
là chuỗi phát ngôn có ngữ điệu uyển chuyển. Tuy nhiên, giọng nói nhỏ nhẹ
lại phù hợp với loại hình diễn xướng ngâm thơ bụi ngâm thơ Việt Nam thiên về sắc thái trầm buồn.
Vì vậy đã
hình thành một lối ngâm thơ theo giọng Huế rất riêng làm xúc động
người nghe. Và giọng nói nhỏ nhẹ. đều đều đó cũng phù hợp với kinh Phật
trầm buồn trong tiếng mõ nhà chùa và sự tĩnh tâm thiền định của con
người.
Cùng với
sự nhỏ nhẹ trong lời ăn tiếng nói của người Huế, nhất là cô gái Huế tạo
một nét văn hóa riêng của vùng đất này, tiếng Huế cũng không gừng
hướng đến tiếng Việt hiện đại và tác động tích cực lên các phương ngữ
chung quanh trong quá trình phát triển của ngôn ngữ. Tiếng Huế đã góp
phần tạo nên Huế, một trung tâm văn hóa của miền Trung và cả nước.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét