Chúng ta đang sống trước thềm của thiên niên kỷ thứ ba nên mỗi khi nghĩ về huyền thoại Rồng Tiên thì thoạt đầu, ai trong chúng ta cũng nghĩ rằng là truyện huyền hoặc, hoang đường.
Dù có tự hào là con Rồng cháu Tiên nhưng với ý nghĩ đơn giản của đời
thường, chúng ta vẫn hoài nghi vì trên đời làm gì có truyện người đẻ ra
trứng, rồi trứng nở ra người? Với tất cả tấm lòng và thái độ trân trọng
nghiêm chỉnh và với phương pháp nghiên cứu huyền thoại để tự đặt mình
vào hoàn cảnh lịch sử thời cổ đại thì những ẩn ý hàm tàng trong huyền
thoại sẽ gợi mở sáng tỏ, minh nhiên lý giải những vấn nan khúc mắc tự
ngàn xưa. Có một thực tế mà chúng ta phải hiểu rõ đó là tất cả các dân
tộc thời cổ đại đều tin tưởng thần linh chở che trong mọi sinh hoạt cuộc
sống. Thật vậy, khi con người vừa bước ra khỏi thời kỳ ăn lông ở lỗ của
thuở hồng hoang để bước vào hình thái xã hội ban sơ, con người cảm thấy
nhỏ nhoi trước sức mạnh kỳ bí của thiên nhiên nên yếu tố thần linh ngự
trị trong mọi sinh hoạt của họ.
Bước
sang đầu thiên niên kỷ thứ ba, một số dân tộc có một nền văn minh tương
đối cao nhưng vẫn còn tôn thờ những vật tổ linh thiêng của họ như dân
Ấn vẫn còn thờ bò. Do đó, chúng ta không thể dựa trên những tập tục cổ
của một dân tộc mà đánh giá một cách sai lầm là xã hội đó kém văn minh,
mê tín, hoang đường. Trái lại sự hiện hữu tục thờ vật tổ Totem của một
số dân tộc chứng tỏ tính phong phú đa dạng của nền văn hoá truyền thống
của mỗi dân tộc. Vấn đề là phải tìm hiểu phần tinh tuý, cốt lõi của nhân
vật hình tượng Mẹ Tiên như Jung nói: “sự đúc kết biết bao suy tư của thời đại tạo dựng độc sáng phải chờ thế hệ sau diễn đạt bằng ngôn từ minh nhiên lý luận”.
Một khi tiền nhân thần thọai hóa mẹ Âu là Tiên thì Mẹ Âu Cơ có thể làm
bất cứ điều gì mà người phàm không làm được, đó là đẻ ra trứng thuộc
phạm trù tín ngưỡng nguyên thủy cũng như phạm trù tôn giáo đòi hỏi phải
có niềm tin một cách mặc khải. Gạt sang một bên vấn đề tự tình dân tộc
để tìm hiểu xem tại sao Mẹ Âu lại đẻ ra “trứng”, chúng ta thấy rõ hàm ý
sâu xa của tổ tiên ta. Thật vậy, ý niệm trứng trong huyền thoại biểu
trưng Totem vật linh biểu trưng của Việt tộc là tộc người thờ chim là
một con vật đứng đầu trong tứ linh: “Nhất điểu, nhì ngư, tam xà, tứ
tượng”. Vì vậy, việc Mẹ Âu Cơ mà vật tổ biểu trưng là chim thì việc mẹ
Âu sinh ra trăm trứng nở ra trăm người con trai trên bình diện tâm linh
là bình thường không có gì đáng ngạc nhiên cả.(3)
Nguồn thư tịch cổ cũng cho ta biết “Lạc bộ Chuy” là chi tộc Việt từ
vùng Cao Nguyên Côn Sơn-Malaya tiến xuống vùng lưu vực của 3 con sông
Hoàng Hà, sông Lạc và sông Vị. Một nhánh khác tiến xuống vùng núi Dân,
Ba Thục. Lạc bộ Chuy là chi Việt cổ của họ Hồng Bàng có vật tổ biểu
trưng là chim vì ông cha ta đã theo dấu chim Hồng, chim Lạc thiên cư
vùng đất miền núi Dân, Ba Thục cũng được gọi là Châu Phong. Địa danh
Phong Châu ở Bắc Việt Nam cũng chỉ là nhắc lại địa danh cư trú ban đầu
của Việt tộc nơi mà mẹ Âu dẫn 50 con lên núi rồi suy cử người con trưởng
làm vua nước Văn Lang như truyền thuyết kể lại. Âu Cơ và 50 con lên đất
Phong Châu, suy phục lẫn nhau cùng tôn người con cả lên làm vua, hiệu
là Hùng Vương, lấy tên nước là VĂN LANG, Đông giáp Nam Hải, Tây tới Ba
Thục, Bắc tới Động Đình Hồ, Nam tới Hồ Tôn (Chiêm Thành). Sách “Lĩnh Nam
Trích Quái” truyện Thánh Tản Viên chép rằng đời Chu Noãn Vương, vua
Hùng thứ 18 đến ở đất Việt Trì, châu Phong, lấy quốc hiệu là Văn Lang.
Bản “Hùng triều Ngọc phả” cũng ghi là đời Hùng Vương thứ 16 là Hùng Tạo
Vương húy là Đức quân Lang (660-569 TDL) mới dời đô về Việt Trì trong
phạm vi lãnh thổ Việt Nam bây giờ. Sự kiện này phù hợp với cương giới
Văn Lang ở trung nguyên Trung Quốc được ghi trong thư tịch cổ.
Những công trình nghiên cứu địa danh là những từ ngữ của một tộc người
đã ghi tạc vào sông núi nơi địa bàn cư trú của họ ở một thời điểm nhất
định nào đó, cho phép chúng ta kết luận là sự tương đồng của những địa
danh khẳng định địa bàn cư trú của cùng một tộc người trên vùng đó.
Trong số những địa danh thì thủy danh là tên sông, nhất là những con
sông lớn có tên sớm nhất trước cả tên đất nữa. Công trình nghiên cứu cho
ta thấy 2 con sông lớn ở Đông Á và Đông Nam Á là Dương Tử Giang và Cửu
Long Giang (Mékong) có tên gọi giống nhau và cùng bắt nguồn từ một danh
từ cổ là “Kang”. Cách phát âm này hiện được giữ lại trong các tiếng địa
phương Quảng Đông và Thượng Hải. Xét theo tự dạng thì chữ “Giang” lại
dùng chữ “Công” để phiên âm. Tên sông Mékong được gọi bằng nhiều tên
theo tiếng nói của các dân tộc mà sông này chảy qua. Trung Quốc gọi là
Khung Giang, Lào gọi là Nậm Khoỏng, Cambodia gọi là Mékong và xuống đến
lãnh thổ Việt Nam, con sông này được gọi một cách thân thương là Cửu
Long giang. Tất cả những danh từ như Cửu Long giang, Nậm Khoỏng, Mékong,
Khung Giang là những dạng tương tự về mặt ngữ âm từ một tên gốc là Kông
mà ra. Nếu chúng ta ngược dòng thời gian đi sâu xuống lớp địa danh Hán
Việt đầy rẫy nơi vùng cư trú của người Việt thì có thể thấy còn có một
lớp địa danh cổ hơn nữa, đó là lớp tên nôm với yếu tố cấu thành là từ
Kẻ. Những tên nôm với yếu tố Kẻ như thế rất nhiều, có thể nói rằng hầu
hết xã thôn Việt Nam ở vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ
đều có. Tên nôm hiện nay đang bị quên dần đi và ít được dùng đến, nhưng
nó từng tồn tại rất lâu. Trước đây, trong một thời gian dài nó tồn tại
song song với Hán Việt, thông thường tên nôm dùng để gọi, còn tên Hán
Việt là “tên chữ”. Như chúng ta biết, tên đặt ra trước tiên dùng để gọi,
đến khi xã hội phát triển ở mức độ khá cao mới nảy sinh nhu cầu ghi
chép. Hơn nữa xét tương quan ngữ âm giữa các cặp tên nôm và tên chữ thì
chúng ta thấy rõ là tên chữ được đặt ra bằng cách phiên âm tên Nôm và
trong một số trường hợp bằng cách dịch nghĩa nữa. Điều này một lần nữa
khẳng định nhu cầu ghi chép là điều kiện xuất hiện tên Hán Việt. Đặc
biệt trong nhiều tên làng Việt Nam, chữ Kẻ trong những tên nôm được
phiên âm ra tên Hán Việt bằng từ Cổ những địa danh có chữ “cổ” đứng đầu
rất phổ biến. Địa danh có chữ Cổ còn thấy rải rác ở Cam Túc, Tứ Xuyên,
Quý Châu, Vân Nam, nhưng tập trung nhất vẫn là vùng Lưỡng Quảng. Như vậy
tên nơi cư trú có thành tố “Kẻ” đứng đầu trong địa danh học cần đặc
biệt lưu ý khi xét vùng đất cổ của cư dân Văn Lang, nó được tìm thấy ở
một mức độ tập trung khá cao tại miền đất bao gồm miền Bắc Việt Nam và
vùng Lưỡng Quảng hiện nay. Địa bàn phổ biến địa danh có chữ “Kẻ” xưa và
“Cổ” hiện nay có thể trải rộng ra nhiều tỉnh thuộc Hoa Nam, nhưng chúng
ta đều biết địa bàn phân bổ của địa danh, càng rộng bao nhiêu thì khởi
điểm của loại địa danh đó càng cổ bấy nhiêu.(4)
Tầm nguyên ngữ nghĩa của chữ LANG cho chúng ta những nhận định chính
xác hơn về địa bàn cư trú của người Việt cổ cũng như uyên nguyên ngữ
nghĩa của tên nước Văn Lang. Cũng như các dân tộc khác thời cổ đại khi
còn là một tộc người thì lấy chữ “người” để chỉ tên của dân tộc đó theo
ngôn ngữ của họ. Chữ Lang trong tiếng Hán có nghĩa là đàn ông, nguyên
gốc của Việt cổ còn ghi rõ trong truyền thuyết con trai vua gọi là Quan
Lang và con gái là Mị nương, hiện danh từ Lang vẫn còn truyền lưu trong
đồng bào Mường, Quan Lang là người đứng đầu một Mường. Ngôn ngữ phương
Nam còn có những chữ như Dranglô của Barnar có nghĩa là đàn ông, Arăng
tiếng Êđê và Urang của Chàm đều có nghĩa là người. Trong tiếng
Indonésia, Mã Lai chữ Orang cũng nghĩa là người. Phương pháp so sánh của
ngôn ngữ lịch sử xem những danh từ kép Văn Lang, Việt Lang, với Urang, Ô
rang, cũng xem như Dạ Lang với Drang trong chữ Dranglo là giống nhau
trên căn bản. Sự khác biệt là do biến đổi từ trạng thái nọ sang trạng
thái kia theo điều kiện không gian và thời gian mà thôi. Căn cứ trên bản
đồ nhân chủng cho thấy tộc danh có thành tố “Lang” trải rộng khắp Trung
Nguyên từ lưu vực sông Dương Tử xuống tới Bắc Trung Việt (Việt Nam) như
Dạ Lang (Quí Châu) Bạch Lang (Tứ Xuyên), Việt Lang (Quảng Đông) và Văn
Lang (Bắc Việt Nam) và những danh từ chung chỉ người như Lang, Dranglo,
Orang, trải rộng trên một địa bàn lớn ở vùng đồng bằng ven biển, các
vùng ven biển bao quanh Nam Hải tới Indonesia, Mã Lai(5).
Vùng đất cư trú của các chi tộc này xét về mặt địa lý phù hợp với cương
vực của nước Văn Lang cũ như truyền thuyết kể lại. Điều này được xác
nhận bởi các nguồn sách sử cổ như “Thiên hạ Quận quốc Lợi bệnh thư” đã
bị triều Thanh tịch thu thì ở tỉnh Quảng Tây có nhiều người Lang (Lang
nhân). Do đó người ta gọi thổ binh ở vùng này là Lang binh và người
Choang cách đây 4, 5 thế kỷ vẫn còn được gọi là Lang và Choang là đọc
chữ Lang trại âm mà ra. Thực tế lịch sử cho chúng ta thấy tính hiện thực
của truyền thuyết trăm trứng nở trăm con với sự hiện diện của các nước
mà cổ sử TQ gọi là Bách Việt (Bai-Yue).
Danh xưng Bách Việt trong sách “Lã Thị Xuân Thu”, thiên “Tự Quan” viết :”Phía Nam Dương Châu, Hán (Hán thủy) là Bách Việt”. Cao Dụ giải thích tiếp như sau: “Bách Việt là nơi tộc Việt có cả trăm chủng”. Sách Hậu Hán Thư, Địa lý chí dẫn lời Thần Tán về Bách Việt như sau: “Từ Giao Chỉ đến Cối Kê trên 7,8 ngàn dặm, người Bách Việt ở xen kẽ nhau gồm nhiều chủng tính (tên họ) khác nhau”.(6)Sử
ký của Tư Mã Thiên chép rằng đời Chu An Vương, Sở Điệu Vương sai Bạch
Khởi đánh dẹp Bách Việt ở miền Nam vào đầu thế kỷ thứ IV TDL. Sách “Lã
thị Xuân Thu” viết rằng ngay từ đầu triều Thương, cổ sử Trung Quốc đã
đề cập tới tên một số chi tộc Việt như Âu Thâm, Việt Âu, Quế Quốc, Quyên
Tử, Sản Ly, Cửu Khuẩn, Đông Việt, Âu Nhân, U Việt, Cô Muội, Thả Âu và
Cung Nhân. Theo “Dật Chu thư” thì các chi tộc Việt ở Lĩnh Nam như Quế
Quốc, Sản Ly, Quyên Tử, Cửu Khuẩn phải cống nạp đồi mồi, hạt châu, chim
quí, ngà voi, sừng tê, chim Hạc, chó lùn. Lạc Việt cống tre ngà (đại
trúc) măng trúc, Thương Ngô ở phía Nam Hồ Nam cống chim công. Tuy nhiên,
sách “Trúc thư kỷ niên” chép là mãi đến đời Chu Thành Vương, năm 1040
TDL “Vu Việt lai tân” nghĩa là Việt đến làm khách thăm xã giao mà thôi.
Sách sử cổ của Trung Quốc cũng ghi là đời Chu, có phái đoàn sứ bộ Việt
Thường sang biếu chim Bạch Trĩ năm 1110 TDL đời Chu Thành Vương năm thứ
6. Như vậy chính cổ sử Trung Quốc đã xác nhận sự hiện hữu của Việt
Thường ngay từ thời Đế Nghiêu. Việt Thường thị của cư dân trồng lúa nước
nên đã có trình độ cao về thiên văn và đã làm ra lịch thời vụ mùa màng
cho nông nghiệp gọi là Nông lịch. Chính vì cùng một dòng tộc đại chủng
Bách Việt nên họ Việt Thường đã đến biếu vua Nghiêu dòng Thần Nông
phương Bắc một con rùa hàng ngàn năm tuổi. Trên lưng con rùa này có viết
chữ “Khoa đẩu” tức là lối chữ hình con nòng nọc của dòng Thần Nông
phương Nam để chỉ cách làm và ứng dụng Nông lịch là Âm lịch còn dùng mãi
đến tận bây giờ. Sau thời Đế Nghiêu Thuấn đến nhà Hạ, Nông lịch đã ứng
dụng hoàn chỉnh nên sách sử cổ thường gọi là lịch nhà Hạ. Đó chính là
Việt lịch tính theo chu kỳ của mặt trăng. Nhà bác học Lê Quí Đôn trong
“Vân Đài Lọai ngữ” đã viết: “Việt
lịch tức Âm lịch tính theo hệ thống quĩ đạo mặt trăng ứng dụng cho con
nước mà bia đá ở Cối Kê, kinh đô nước Việt thời Câu Tiễn ghi rõ là nước
thủy triều lên xuống đúng chu kỳ mặt trăng”.
Trong tác phẩm Sử Ký, sử gia chính thống Đại Hán là Tư Mã Thiên chép về sự hình thành của quốc gia Việt Thường như sau: “Đầu
đời Tây Chu (1143-770TDL) người nước Việt Thường đuổi người Tam Miêu,
lập nước ở vùng giữa hồ Động Đình và hồ Phiên Dương còn gọi là Bà Dương ở
phía Nam lưu vực sông Dương Tử”. Nước Việt Thường còn tồn
tại mãi tới đời vua nước Sở là Hùng Cừ. Sử nước Sở chép rằng đời Hùng Cừ
(887-877TDL) đã chiếm Việt Thường bên hồ Phiên Dương mà kinh đô của
Việt Thường nằm ở giữa hồ Phiên Dương và hồ Động Đình. Đời Tống, La Tất
viết “Lộ sử” đã liệt kê một số nhóm trong Bách Việt như sau: “Việt
Thường, Lạc Việt, Âu Việt, Âu Khải, Âu Nhân, Thả Âu, Cung Nhân, Hải
Dương, Mục Thâm, Phù Xác, Cầm Nhân, Thương Ngô, Man Dương, Dương Việt,
Quế Quốc, Tây Âu, Quyên Tử, Sản Ký, Hải Quỳ, Tây Khuẩn, Kê Từ, Bộc Cần,
Bắc Đái, Khu Ngô gọi là Bách Việt”. Trong “Dật Chu Thư” viết
chữ Lạc là Lộ, sách Lã Thị Xuân Thu giải thích Lộ là Lạc Việt. Như vậy,
La Tất viết Lộ sử tức sử của Lạc Việt.(11)Theo Đào Duy Anh
thì trong những nhóm Bách Việt ấy chúng ta thấy có những nhóm như Dương
Việt ở hạ lưu sông Dương Tử, nhóm Thương Ngô ở miền Nam tỉnh Quảng Tây,
nhóm Sản Lý tức Xà Lý ở tận miền Tây Nam tỉnh Vân Nam, còn Kê Từ, Bắc
Đái là những tên huyện thời Hán thuộc quận Giao Chỉ. Có thể căn cứ vào
những địa điểm ấy mà nói rằng sử sách Trung Quốc xưa gọi là Bách Việt là
những nhóm người Việt ở rải rác trên khắp miền Hoa Nam, phía Tây gồm cả
đất Vân Nam, phía Nam gồm cả đất miền Bắc Việt Nam ta mà sử gọi chung
là miền Giang Nam (miền Nam sông Dương Tử) và miền Lĩnh Nam (miền Nam
rặng Ngũ Lĩnh). Trong những nhóm Bách Việt được chính sử Trung Quốc như
Sử Ký và Tiền Hán Thư chép tương đối kỹ càng là: Đông Việt, Mân Việt,
Nam Việt, Tây Âu. Sử ký mục “Đông Việt truyện” cho chúng ta biết rằng
Đông Việt hay Đông Âu trong thời Tần Hán đóng đô ở Vĩnh Ninh tức Vĩnh
Gia là miền Triết Giang. Mân Việt thì ở đất Mân Trung tức là miền Phúc
Kiến. Nam Việt đô ở Quảng Châu gọi là thành Phiên Ngung thuộc miền Quảng
Đông, Tây Âu ở phía Nam sông Ly miền Quảng Tây. Còn nhóm Lạc Việt, theo
Hậu Hán thư cho chúng ta biết rằng các quận Giao Chỉ và Cửu Chân là
người Lạc Việt, như thế Lạc Việt là một chi Việt tộc tập trung nhiều
nhất ở miền Bắc Việt Nam. Theo sử sách xưa của chính Hán tộc thì Bách
Việt là những nhóm người sống rải rác khắp miền Hoa Nam, phía Tây gồm cả
đất Vân Nam Tứ Xuyên và phía Nam gồm cả Bắc và Trung Việt Nam bây giờ
mà sử sách thường gọi chung là miền Giang Nam tức miền Nam sông Dương Tử
hoặc miền Lĩnh Nam, phía Nam rặng núi Ngũ Lĩnh. Tuy nhiên chính sử
Trung Quốc như Sử ký của Tư Mã Thiên chỉ ghi về Đông Việt, Mân Việt, Nam
Việt và Lạc Việt mà thôi. Thư tịch cổ Trung Quốc phải thừa nhận một
thực tế lịch sử đó là sự thành lập của các quốc gia thời Xuân Thu Chiến
quốc mà họ gọi là Bách Việt ở vùng Giang Nam. Sử ký của Tư Mã Thiên chép
tương đối kỹ về Đông Việt tức U Việt của Việt Vương Câu Tiễn không chỉ ở
Triết Giang mà lên tới miền Giang Tô tức châu Từ, quê hương của gốm sứ
Việt cổ nổi tiếng của chi Dương Việt. Nước Việt đóng đô ở Cối Kê với
những thăng trầm dâu bể của lịch sử nên Lý Tế Xuyên mới viết “Việt điện U
linh” về nước Việt thuở xa xưa. Mân Việt ở Phúc Kiến, Dương Việt ở
Giang Tây, Liêu Việt ở Quí Châu, Điền Việt, Kiềm Việt ở Vân Nam, Quỳ
Việt ở Tứ Xuyên, Nam Việt ở Quảng Đông, Âu Việt còn gọi là Tây Âu ở
Quảng Tây và Lạc Việt ở xen kẽ với Âu Việt rải rác khắp Hoa Nam nhưng
tập trung nhiều nhất ở Quảng Tây và Bắc Việt Nam bây giờ.
Đối chiếu với cương giới Văn Lang trong truyền thuyết chúng ta thấy
thực tế địa bàn cư trú của cộng đồng Bách Việt trải dài từ phía Nam
lãnh thổ triều Thương ở lưu vực sông Hoàng Hà xuống tận phương Nam giáp
Chiêm Thành và từ biển Đông sang tới tận Ba Thục ở phía Tây. Thế nhưng
Đại Việt Sử Lược bị sử quan triều Thanh là Tiền Hi Tộ sửa đổi nên chép
tên các bộ chỉ nằm trong phạm vi Bắc Việt Nam bây giờ. Theo nhà bác học
Lê Quí Đôn trong Vân Đài loại ngữ thì “Tên
15 bộ do triều Hán, Ngô mới đặt ra, tên gọi lẫn lộn ngờ rằng những tên
đó là do bọn hậu Nho góp nhặt vay mượn chép ra nên khó mà tin được. Xét về phận dã thiên văn thì Giao Chỉ thuộc Sao Tĩnh, Dực Chẩn và Đẩu Ngưu”.
Như vậy, nhà bác học Lê Quí Đôn đã xác nhận rõ là cương giới nước ta
thời cổ nằm mãi ở Trung nguyên Trung Quốc bây giờ. Thật vậy, cương giới
Hồng Bàng-Văn Lang xưa được ghi trong “Thiên thư” là Việt Tĩnh Cương lấy
chòm sao Tĩnh làm chuẩn để phân bố các vùng, các bộ trong nước Văn
Lang. Nhìn chung, chòm sao Tĩnh tượng hình bằng 2 đường thẳng và 2 đường
ngang cắt nhau tại 4 điểm chỉ vùng đất từ Tam giang Bắc gồm sông Vị,
sông Hoàng và sông Lạc xuống tới Tam giang Nam gồm sông Nguyên, sông
Tương và sông Dương Tử. Sự mâu thuẫn cũng không có gì khó hiểu, vì việc
bóp méo, xuyên tạc và sự kiện lịch sử được hư cấu để vấn đề gốc tích dân
tộc ta trở nên huyền hoặc là bản chất cố hữu, chủ trương trước sau như
một của Hán tộc xuyên suốt dòng lịch sử. Trong khi đó sách Lĩnh Nam
Trích Quái dựa theo truyền thuyết dân gian Việt cổ lại chép các bộ Chân
Định ở Trường Sa Hồ Nam, bộ Quế Dương, Quế Lâm ở Quảng Tây và Tượng quận
ở Quí Châu, Vân Nam thuộc lãnh thổ Trung Quốc bây giờ rất phù hợp nguồn
sách sử cổ và với thực tế lịch sử của các nước Bách Việt ở lãnh thổ TQ
thời bấy giờ.
Sử gia Tư Mã Thiên người được coi là ngay thẳng trung thực nhưng với tư
cách là sử gia đại biểu chính thống cho Hán tộc, Tư Mã Thiên là người
hiểu rõ hơn ai hết Hoàng Đế là người Việt vì cũng chính ông ta đã viết
là những vị vua Đế Chuyên Húc, Đế Cốc đều là ông tổ của những vị vua
Việt sau này nhưng vẫn đặt bút viết Hoàng Đế là thủy tổ của Hán tộc. Tư
Mã Thiên cũng hiểu rõ về Lạc bộ Chuy, Lạc bộ Thủy, Lạc bộ Trãi nhưng lại
viết Lạc bộ Mã vì không muốn người Việt nhớ đến cội nguồn dân tộc và
lãnh thổ Việt xưa. Tóm lại, chính thực tế lịch sử đã minh nhiên lý giải ý
nghĩa của sự việc lạ thường là mẹ Tiên đẻ trăm trứng nở trăm con, để
rồi trở thành trăm chi tộc Việt mà sử cổ Trung Hoa gọi là Bách Việt. Mỗi
chi tộc do một người con trai đứng đầu nên từ đó mới có ý niệm bách
tính là trăm họ. Đây mới chính là vấn đề mà cốt lõi của nó là sự gửi gấm
của ông cha ta thời dựng nước cho con cháu ngàn sau, về nguồn gốc giống
dòng của trăm chi tộc Việt máu mủ ruột rà, cùng chung huyết thống để
lúc hoạn nạn nhớ cưu mang giúp đỡ lẫn nhau như lời Bố Lạc dặn dò trước
lúc chia tay. Không những cưu mang giúp đỡ lẫn nhau mà còn phải đoàn
kết, thống nhất sức mạnh Việt tộc để phục hưng đại tộc Việt theo truyền
thuyết dân gian Hoa Nam và Đài Loan về chim Phượng Hoàng, chúa tể loài
chim Totem Vật tổ Việt tộc mà dân gian gọi là “Bái điểu tộc”, chống lại
“Thiên ma tộc” Đại Hán. Đó chính là bức “Thông điệp” của tiền nhân từ
huyền thoại xuyên suốt mấy ngàn năm của dòng vận động lịch sử Việt. Thế
là Truyền thuyết huyền thoại từ chỗ u u đã trở nên minh minh, chứ không
còn u u minh minh như trước nữa. Ngày nay chúng ta không còn ngạc nhiên
khi thấy ông cha ta đã chọn loại Chim là vật biểu, tự thân hai chữ Hồng
Bàng có nghĩa là rộng lớn. Hồng là Ngỗng trời, còn Hộc là Ngan trời, nên
cả hai còn có tên là Thiên Nga (Swan), hàm ý có chí lớn bay cao tận
trời xanh. Hình ảnh chim được khắc hoạ trên mặt trống đồng với mỏ dài
của loại chim nước mà các nhà nghiên cứu đã kết luận chim nước là của
Đông Nam Á, nó gắn liền với cư dân nông nghiệp sống ở vùng sông lạch,
ao hồ. Theo triết gia Kim Định thì Hồng Hộc, chim nước của Việt tộc thể
hiện nguyên lý Âm Dương Giao Chỉ vì nó vừa bay lên trời vừa xuống dưới
nước. Chi tộc Âu Việt tôn thờ chim Hồng biểu trưng của văn minh nông
nghiệp cùng với chi Lạc thờ Rồng trong cộng đồng Bách Việt nên chúng ta
vẫn tự hào là dòng giống Lạc Hồng (Lạc Âu). Trên bình diện tâm linh, hư
cấu thêm ý nghĩa thần thoại thì chim bay lên tận trời xanh thường gắn
liền với các vị Tiên nữ trên trời. Sách Quảng Đông Tân ngữ ghi Trĩ là
con Công của Việt tộc luôn luôn bay theo hướng mặt trời, mà con Công
chính là chim Phượng Hoàng huyền thoại được coi như tổ các loài chim. Ý
niệm Chim-Tiên-Mặt trời gắn liền với tín ngưỡng nguyên thủy của cư dân
nông nghiệp với nền văn minh lúa nước của Việt tộc. Bên cạnh ý nghĩa tâm
linh đó, chim Hồng biểu tượng một ý chí cao, luôn bay vươn lên, vượt
tới trời xanh, thể hiện ý chí cao cả của tộc Việt, người dân Việt sẳn
sàng hy sinh cho dân tộc nên xem cái chết “nhẹ như lông Hồng”.
1. Đại Việt Sử Lược tác gỉa khuyết danh, Bản dịch của Trần Quốc Vương, NXB Thuận Hoá 2001, tr 17.
2.
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên: Nhà xuất bản Khoa học-Xã hội
phát hành năm 1993 dịch từ bản in năm Chính Hòa thứ 18 (1697) là Nội các quan bản. Bản chính của Nội các quan bản hiện đang lưu giữ tại thư viện của trường Viễn Đông Bác Cổ Paris.
3.
Điều mà chúng ta ngạc nhiên là những gì mà tiền nhân chúng ta, ngay từ
thời cổ đại đã nói tới ý niệm “Trứng” mà gần mười ngàn năm sau, chúng ta
mới biết là người phụ nữ có một buồng trứng, khi trứng rụng kết hợp với
tinh trùng sẽ tạo thành bào thai.
4-5. Hoàng Thị Châu: Mối Liện hệ về ngôn ngữ cổ đại ở Đông Nam Á qua tên sông ở Việt Nam (Thời Đại Hùng Vương, NXB Hà Nội).
6. Tưởng Bỉnh Khiêm, Ngô Miên Cát, Hạnh Thổ Thành” Văn hoá Dân tộc Bách Việt”, NXB Học Thuật Hạ Môn TQ, 1986, tr 401.
7. Lê Xuân Diệm: Thời Dựng Nước, Lịch Sử Việt Nam Tập 2 tr 40.
Nguồn AN VIỆT TOÀN CẦU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét