1. Trong gia đình
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên hay còn được gọi là đạo thờ cúng tổ tiên
trở thành nếp sống trong mửi gia đình người Việt Nam và được thể hiện
trong rất nhiều cách thức.
Những
biểu hiện bên ngoài như: bàn thờ ông bà, cha mẹ (gia tiên), giỗ chạp...
đến những tâm thức thường trực tiềm tàng trong cách nghĩ, cách cảm, lối
sống của cư dân.
2. Bàn thờ gia tiên
Theo
điều tra năm 1999 - 2000, hầu như nhà nào cũng thờ gia tiên không kể
trưởng thứ, cứ lập gia đình ra ở riêng là dành một chỗ trang trọng nhất
để thờ.
Với những gia đình chưa có điều kiện kinh tế hoặc con thứ thì
cũng vẫn có một ban thờ (ở thành phố thường bằng gử, treo trên tường,
hoặc đặt trên mặt tủ; ở nông thôn thì có cả ban thờ bằng tre, gử, nhiều
loại, có bát hương, lọ hoa, ảnh hoặc tranh truyền thần) của ông bà hoặc
bố mẹ.
Những
nhà có điều kiện thì đóng mới hoặc mua bàn thờ đặt ở gian trang trọng,
câu đối, hoành phi. Bàn thờ gia tiên là nơi biểu hiện - vật thể hoá
những tình cảm, tránh nhiệm của thế hệ đang sống với các thế hệ trước
của gia đình (gia tiên). Ngoài các ngày kỵ (giỗ chạp), ngày một (ngày
sóc), ngày rằm (ngày vọng) trong tháng, các lễ tiết trong năm (Hàn thực,
Đoan ngọ, Trung thu, Tết Nguyên Đán) thì mọi vui buồn trong gia đình
đều được chủ nhà "báo cáo" với gia tiên về chứng giám, giàu có thì mâm
cỗ, khá chút thì hoa quả, đĩa xôi, chén rượu... nghèo thì nén hương,
chén nước sạch...
3. Giỗ chạp
Trong
gia đình, việc cúng giỗ gia tiên, tổ tiên chỉ được thực hiện với những
người trong phạm vi từ bốn đời trở xuống (người mà chủ gia đình gọi là
cụ, còn từ đời thứ 5 trở lên được giỗ chung trong phạm vi họ tộc hay
trong chi phái). Giỗ chạp, theo phong tục xưa chỉ diễn ra ở nhà con trai
trưởng - bậc trai trưởng. Những ngày giỗ, tuỳ theo tình hình kinh tế
của nhà trưởng mà cử bàn to hay nhỏ, nhiều hay ít.
Có
một thực tế là không phải tất cả các gia đình đều có con trai hay tất
cả những con trai trưởng đều còn, trong những trường hợp như vậy, từ lâu
ở người Việt thường có chế độ thừa tự (con trai thứ của bậc thứ được
nhận phần cúng giỗ) hoặc con gái cũng cúng cha mẹ, ông bà.
4. Trong phạm vi dòng họ
Trong
phạm vi dòng họ, việc thờ cúng tổ tiên thể hiện qua một loạt các hoạt
động tập thể của các gia đình, các thành viên trong họ về giỗ tổ, chạp
mộ. Địa điểm thờ cúng tổ tiên của dòng họ được diễn ra ở nhà trưởng họ
(tộc trưởng), có nơi có điều kiện thì xây cất nhà thờ họ (từ đường).
5. Nhà thờ họ (Từ đường)
Không
phải tất cả các họ, tộc đều có (hoặc còn) nhà thờ - một địa điểm thờ
cúng tổ tiên chung của các thành viên trong họ - theo nghĩa là những
người được coi là có chung một cụ tổ về đằng cha, vì tuỳ thuộc những
điều kiện kinh tế, xã hội nhất định. Tuy nhiên, nhà thờ họ (từ đường) là
một hiện tượng ngày càng phổ biến, phát triển của cư dân Việt nói
chung, của vùng Nam Định nói riêng. Tính đến năm 1998, theo số liệu điều
tra của Sở Văn hoá - Thông tin tỉnh Nam Định, toàn tỉnh có đến 3.368 từ
đường chính phái, hoặc chi, nhánh của các dòng họ, chi phái thì có bấy
nhiêu từ đường. Thôn Hưng Thịnh, xã Hoàng Nam, huyện Nghĩa Hưng với 30
họ, 34 nhà thờ; thôn Bách Tính, Nam Trực có 15 nhà thờ họ; làng Hoành
Nha, xã Giao Tiến, huyện Giao Thuỷ có 54 từ đường; Trà Lũ có 18 từ
đường. mặt khác có một thực tế, do những điều kiện lịch sử , kinh tế xã
hội cụ thể mà Nam Định càng đi về mạn Xuân Trường, Giao Thuỷ, Hải Hậu,
Nghĩa Hưng, những làng có lịch sử khai phá từ khoảng vài trăm năm trở
lại, những từ đường lại mọc lên nhiều hơn. Trong những điều kiện của một
cư dân tiểu nông, mỗi lần phải rời quê hương bản quán đi khai khẩn vùng
đất mới, ý thức về quê hương, tổ tiên, dòng họ lại có dịp trửi dậy.
6. Hoành phi câu đối
Trong
nhà thờ, bên cạnh bài vị, bàn thờ cụ tổ, các bậc tổ tiên, đồ thờ tuỳ
từng họ mua sắm, phổ biến là những hoành phi câu đối, không ít các nhà
thờ họ còn có các bia đá nói công đức của tổ tiên, công việc xây dựng
hay các dịp trùng tu, sửa chữa nhà thờ họ với đóng góp công sức, tiền
của của các thành viên trong dòng họ hoặc nội quy, quy ước về việc họ.
Cũng
như từ đường, gia phả, tộc phả không phải họ nào cũng có, nhưng cũng
xuất hiện từ lâu và ngày một phát triển ở trong các dòng họ vùng Nam
Định. Phần nhiều những gia phả được coi là sớm giữ lại là khoảng nửa
cuối thế kỷ XIX. Cấu trúc thường gặp của các gia phả, tộc phả có các mục
nói về mục đích, ý nghĩa của việc viết gia phả, tộc phả, các ghi chép
thế thứ, những thông tin cần thiết của những thành viên nam trong dòng
họ, ngày sinh, giỗ kỵ, hành trạng, vợ con...) các dòng họ coi gia phả,
tộc phả là bảo vật của gia đình, dòng họ của mình, giữ gìn, trân trọng
và chỉ khai gia phả vào các dịp trọng thể của dòng họ như giỗ tổ.
Mặc
dù, chưa có một cuộc tổng điều tra về số lượng gia phả, tộc phả của các
dòng họ Nam Định, nhưng hiện nay cũng đã thấy có nhiều cuốn gia phả
được lưu hành trong các trung tâm lưu giữ của trung ương và tỉnh, có giá
trị về lịch sử, văn hoá của Nam Định nói riêng, của đất nước nói chung,
chẳng hạn như: Lương thế tộc phả ký, Đại tông chính phủ họ Vũ (Đại An,
Vụ Bản), Ngô gia thế phả (Bách Tính, Nam Trực), Đặng gia thế phả (Hành
Thiện, Xuân Trường).
7. Chăm lo phần mộ, tảo mộ, xây mộ
Trong
quan niệm của người Việt nói chung "sống về mồ mả chứ không sống về cả
bát cơm". Việc chăm lo phần mộ, xây mộ, tảo mộ của cư dân Nam Định được
coi là một biểu hiện quan trọng, phổ biến của tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên.
Trong
các gia phả cũ còn lại hầu như không một gia phả nào không chép về nơi
để mộ, vị trí cụ thể của các ngôi mộ trên các cánh đồng, xứ đồng, nhiều
gia phả có ảnh hưởng của phong thuỷ, địa lý còn ghi chép đầy đủ hơn, kể
cả hướng ngôi vị của ngôi mộ. Hàng năm, vào các dịp dử, thanh minh, 30
tháng chạp, các gia đình tổ chức đi sửa sang phần mộ chung. Khoảng độ
gần 20 năm trở lại đây, do điều kiện kinh tế được cải thiện và cũng do
cả kích thích của kinh tế hàng hoá cạnh tranh, phong trào "xây tôn tạo
mộ cho cha mẹ, ông bà tổ tiên, lan rộng khắp các địa bàn Nam Định.
8. Giáo dân với việc thờ cúng tổ tiên
Trong
các dòng truyền giáo hoạt động ở Việt Nam như dòng Tiên, dòng Phanxico,
Hội truyền giáo Pari thì dòng Đa Minh - vốn được giao cai quản địa phận
đông Đàng Ngoài, trong đó có Nam Định, cũng dần dần chấp nhận một số
phong tục, quan niệm của người Việt trong đó có chuyện tang ma, tưởng
nhớ người thân đã khuất trong gia đình. Các tín đồ Công giáo đã tham gia
thờ cúng tổ tiên với từng cấp độ khác nhau như thờ cúng người có công
mở đất lập làng, tổ nghề, thờ cúng họ tộc, quan niệm về hồn, vía của
người đã mất, các hình thức giỗ chạp, những giọng điệu hát kinh, cầu
kinh cho người qua đời.
Từ
năm 1974, theo tinh thần của Công giáo cả nước, giáo dân Nam Định, được
tổ chức tham dự các nghi lễ tôn kính tổ tiên, ông bà với năm điểm quy
định:
- Được đặt bản thờ tổ tiên thấp hơn bàn thờ Chúa.
- Được đốt đèn nhang, vái lạy trước bàn thờ tổ tiên.
- Được cúng giỗ trong gia đình theo phong tục địa phương.
- Trong hôn lễ, dâu rể được làm lễ tổ, lễ gia tiên trước bàn thờ tổ tiên.
- Trong tang lễ, được vái lạy thi hài người quá cố, đốt hương vái theo phong tục địa phương.
Trước
đây, giáo dân thường chôn cất người chết một lần và đào sâu chôn chặt,
xây mộ trong nghĩa địa chung , (nghĩa địa của giáo dân thường được quy
hoạch gọn gàng, quy mô hơn những bãi tha ma, nghĩa địa của dân không
theo đạo). Hơn chục năm trở lại đây, nhiều giáo dân cũng thực hiện việc
cải táng.
(Nguồn: Namdinh.vn)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét